TRẢ LỜI : LUẬT HÌNH SỰ

    Trẻ em phạm tội có bị truy cứu trách nhiệm hình sự? Trẻ em bị kết án thì có án tích không? Trên thực tế trường hợp trẻ em phạm tội không hề hiếm gặp, do thiếu hiểu biết về pháp luật cũng như đang trong độ tuổi tâm sinh lý bất ổn mà nhiều trường hợp trẻ em vô tình vi phạm pháp luật. Vậy trường hợp trẻ em phạm tội có bị truy cứu trách nhiệm hình sự và có bị coi là có án tích không - VietLawyer sẽ giải đáp thắc mắc của bạn qua bài viết dưới đây. 1. Trẻ em phạm tội thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?     Căn cứ theo Điều 1 Luật trẻ em 2016 quy định về định nghĩa trẻ em: Trẻ em là người dưới 16 tuổi.     Có thể hiểu, trẻ em theo quy định của pháp luật là người dưới 16 tuổi.     Căn cứ theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”.     Như vậy, trẻ em từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật Hình sự cụ thể: + Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội hiếp dâm (Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội cưỡng dâm (Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội mua bán người (Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội cướp tài sản (Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội cướp giật tài sản (Điều 171 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội trộm cắp tài sản (Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 265 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội đua xe trái phép (Điều 266 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 286 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 287 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác (Điều 289 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội khủng bố (Điều 299 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) + Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 304 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017).     Trường hợp trẻ em dưới 14 tuổi phạm tội thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 2. Trẻ em phạm tội bị kết án thì có án tích không?     Căn cứ theo Khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về xóa án tích như sau: 1. Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi; b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; c) Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này.     Như vậy, Trẻ em phạm tội là người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội bị kết án được coi là không có án tích. 3. Trẻ em phạm tội thì có áp dụng hình phạt tù có thời hạn không?     Căn cứ theo Khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về phạt tù có thời hạn được quy định như sau: 2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.     Như vậy, trẻ em phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù.     Nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.     Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer về vấn đề trẻ em phạm tội có bị truy cứu trách nhiệm hình sự và có bị coi là có án tích không. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
     Trẻ em luôn là vấn đề được cả xã hội chú ý quan tâm hàng đầu, một số cá nhân xấu vì lợi ích của bản thân mà ép buộc trẻ em thực hiện các hành vi trái pháp luật để thu lợi bất chính. Vậy trường hợp người có hành vi cưỡng ép trẻ em dùng ma túy, chất kích thích để dễ dàng kiểm soát, thao túng trẻ em hoặc vì mục đích khác thì bị xử lý như thế nào? - VietLawyer sẽ giải đáp thắc mắc của bạn qua bài viết dưới đây. 1. Những hành vi nào bị nghiêm cấm để bảo vệ trẻ em?      Theo quy định tại Khoản 9 Điều 6 Luật Trẻ em 2016 về các hành vi bị nghiêm cấm thực hiện đối với trẻ em như sau như sau: 1. Tước đoạt quyền sống của trẻ em. 2. Bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. 3. Xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em. 4. Tổ chức, hỗ trợ, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn. 5. Sử dụng, rủ rê, xúi giục, kích động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc trẻ em thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác. 6. Cản trở trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình. 7. Không cung cấp hoặc che giấu, ngăn cản việc cung cấp thông tin về trẻ em bị xâm hại hoặc trẻ em có nguy cơ bị bóc lột, bị bạo lực cho gia đình, cơ sở giáo dục, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. 8. Kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em vì đặc Điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tín ngưỡng, tôn giáo của trẻ em. 9. Bán cho trẻ em hoặc cho trẻ em sử dụng rượu, bia, thuốc lá và chất gây nghiện, chất kích thích khác, thực phẩm không bảo đảm an toàn, có hại cho trẻ em. 10. Cung cấp dịch vụ Internet và các dịch vụ khác; sản xuất, sao chép, lưu hành, vận hành, phát tán, sở hữu, vận chuyển, tàng trữ, kinh doanh xuất bản phẩm, đồ chơi, trò chơi và những sản phẩm khác phục vụ đối tượng trẻ em nhưng có nội dung ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em. 11. Công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 07 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em. 12. Lợi dụng việc nhận chăm sóc thay thế trẻ em để xâm hại trẻ em; lợi dụng chế độ, chính sách của Nhà nước và sự hỗ trợ, giúp đỡ của tổ chức, cá nhân dành cho trẻ em để trục lợi. 13. Đặt cơ sở dịch vụ, cơ sở sản xuất, kho chứa hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, độc hại, có nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ gần cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá, Điểm vui chơi, giải trí của trẻ em hoặc đặt cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, Điểm vui chơi, giải trí của trẻ em gần cơ sở dịch vụ, cơ sở sản xuất, kho chứa hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, độc hại, có nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ. 14. Lấn chiếm, sử dụng cơ sở hạ tầng dành cho việc học tập, vui chơi, giải trí và hoạt động dịch vụ bảo vệ trẻ em sai mục đích hoặc trái quy định của pháp luật. 15. Từ chối, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không kịp thời việc hỗ trợ, can thiệp, điều trị trẻ em có nguy cơ hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm, bị tổn hại thân thể, danh dự, nhân phẩm.      Theo đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em thì pháp luật nghiêm cấm những hành vi được quy định nêu trên. 2. Ép buộc trẻ em sử dụng ma túy có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự      Căn cứ theo quy định tại Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy như sau: 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người khác để buộc họ phải sử dụng trái phép chất ma túy trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Vì động cơ đê hèn hoặc vì tư lợi; d) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi; đ) Đối với phụ nữ mà biết là có thai; e) Đối với 02 người trở lên; g) Đối với người đang cai nghiện; h) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; i) Gây bệnh nguy hiểm cho người khác; k) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm: a) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc gây chết người; b) Gây bệnh nguy hiểm cho 02 người trở lên; c) Đối với người dưới 13 tuổi. 4. Phạm tội trong trường hợp làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.      Theo quy định trên, trường hợp người có hành vi cưỡng ép trẻ em sử dụng ma túy có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định của Điểm d Khoản 2 và Điểm c Khoản 3 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Đồng thời, người có hành vi cưỡng ép trẻ em sử dụng ma túy có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. 3. Vụ án ép buộc trẻ em sử dụng ma túy có bị khởi tố khi không có yêu cầu của cha mẹ trẻ không?      Theo Khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2021) quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau: 1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. ...      Như vậy, vụ án ép buộc trẻ em sử dụng ma túy vẫn sẽ được khởi tố kể cả khi không có yêu cầu của người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi (cha hoặc mẹ trẻ) do không thuộc trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại hoặc đại diện của họ.      Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer về vấn đề trường hợp người có hành vi cưỡng ép trẻ em dùng ma túy thì bị xử lý như thế nào. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
     Trẻ em luôn là một trong những đối tượng cần được ưu tiên bảo vệ hàng đầu ở bất cứ quốc gia nào, bao gồm cả Việt Nam, thế nhưng những hành vi bạo hành trẻ em hiện nay vẫn đang xảy ra hằng ngày. Bạo lực, ngược đãi, đánh đập trẻ em không phải là chuyện hiếm thấy, không ít vụ việc đã được đưa ra xét xử hình sự theo quy định pháp luật. Một số người thắc mắc rằng trong trường hợp chỉ gây thương tích cho trẻ dưới 11% thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không? - VietLawyer sẽ giải đáp thắc mắc của bạn qua bài viết dưới đây: 1. Đánh đập trẻ em gây thương tích dưới 11% thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?      Căn cứ theo Điều 1 Luật trẻ em 2016 giải thích định nghĩa về trẻ em: Trẻ em là người dưới 16 tuổi.      Căn cứ theo Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên; b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên; e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình; h) Có tổ chức; i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc; l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê; m) Có tính chất côn đồ; n) Tái phạm nguy hiểm; o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. ...      Theo quy định trên, người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (cố ý xâm phạm thân thể, gây hại đến sức khỏe người khác) mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% thì có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.      Tuy nhiên, trong một số trường hợp khác nêu trên thì không cần thỏa điều kiện về tỷ lệ tổn thương, thương tật của cơ thể nạn nhân, tức chỉ cần có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trong đó có trường hợp đối với những người dưới 16 tuổi.      Cũng theo quy định của pháp luật Việt Nam thì trẻ em được xác định là những người dưới 16 tuổi. Cho nên người có hành vi đánh đập, ngược đãi trẻ em dù gây thương tích dưới 11% thì vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 2. Người đánh đập trẻ em gây thương tích dưới 11% có mặc nhiên bị khởi tố khi vụ việc bị phát hiện không? Căn cứ theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2021) có quy định về việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, theo đó: 1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật Hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. 2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. 3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.      Như vậy, nếu như người có hành vi đánh đập trẻ em gây thương tích dưới 11% thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)thì vụ việc này chỉ bị khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của người đại diện của bị hại. Nếu rơi vào các khoản khác của Điều 134 thì khi vụ việc bị phát hiện, cơ quan có thẩm quyền xác định có đủ cơ sở thì sẽ khởi tố vụ án hình sự mà không cần có sự yêu cầu của bị hại hay người đại diện của bị hại.      Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer về vấn đề trường hợp chỉ gây thương tích cho trẻ dưới 11% thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến Hình sự và các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
 
hotline 0927625666