TRẢ LỜI : LUẬT HÌNH SỰ

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. 1.Bảo lĩnh trong vụ án hình sự là gì ? Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. 2. Ai là người có thể xin bảo lĩnh cho bị can, bị cáo? Người xin bảo lĩnh cho bị can, bị cáo có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. - Trường hợp cơ quan, tổ chức có nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo (Bị can, bị cáo phải là người của cơ quan, tổ chức xin được bảo lĩnh) Việc cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. - Trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh thì phải là có ít nhất 02 người thân thích của bị can, bị cáo nhận bảo lĩnh. 02 cá nhân người thân thích phải là người đủ 18 tuổi trở lên, có nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. 3.Thời hạn bảo lĩnh Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. **Lưu ý: - Nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan theo quy định trên thì bị tạm giam. - Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh cho bị can, bị cáo. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
07 trường hợp không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án Căn cứ Điều 19 Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Theo đó, không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án trong 07 trường hợp sau đây: 1. Yêu cầu đòi bồi thường do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước; 2. Vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội; 3. Đương sự đã được mời tham gia hòa giải, đối thoại hợp lệ lần 2 mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan hoặc không thể tham gia hòa giải, đối thoại được vì lý do chính đáng; 4. Một bên vợ hoặc chồng trong tranh chấp ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự; 5. Một trong các bên đề nghị không tiến hành hòa giải, đối thoại; 6. Một trong các bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính; 7. Trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về các trường hợp không tiến hành thủ tục hòa giải đối thoại tại Tòa án. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là gì? Để hiểu rõ vấn đề này, VietLawyer xin gửi tới Quý bạn đọc bài viết dưới đây: 1. Khái niệm Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự 2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự - 05 năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng (các tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến ba năm). - 10 năm đối với các tội phạm nghiêm trọng (các tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù). - 15 năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng (các tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm) - 20 năm đối với các tội đặc biệt nghiêm trọng (các tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình). Nếu các thời hạn trên đã qua mà các cơ quan bảo vệ pháp luật vì lí do nào đó không phát hiện được, hoặc phát hiện được nhưng bỏ qua không điều tra, truy tố, xét xử thì người phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mà họ đã thực hiện. 3. Cách tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nói chung được tính từ thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện. Nhưng ở một số trường hợp đặc biệt thì cách tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự có điểm khác. Cụ thể: - Nếu trong thời hạn quy định tại Khoản 2 Điều 27 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới. - Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ (khoản 2 Điều 27 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017). 4. Không tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự khi nào? Do những tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 và 4 Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp được quy định tại Khoản 3 và khoản 4 Điều 354 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 nên luật hình sự Việt Nam không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các loại tội này. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Lừa dối khách hàng được hiểu là bất kì hành vi gian dối trong việc mua bán hàng hóa vậy Tội lừa dối khách hàng là gì? Tội lừa dối khách hàng và Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có điểm gì giống và khác nhau? Làm thế nào để phân biệt hai tội danh trên? - VietLawyer sẽ giải đáp các thắc mắc của bạn qua bài viết dưới đây. 1. Tội lừa dối khách hàng là gì? Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật quy định về định nghĩa của tội lừa dối khách hàng. Tuy nhiên, căn cứ vào yếu tố cấu thành tội phạm theo Khoản 1 Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017):  Tội lừa dối khách hàng có thể được hiểu là hành vi phạm tội trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác. 2. Phân biệt tội lừa dối khách hàng và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Điểm giống nhau: - Chủ thể: Là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Điểm khác nhau: - Mô tả: + Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Là tội mà người phạm tội có hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó. + Tội lừa dối khách hàng: Là việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác trong việc mua bán để thu lợi bất chính. - Khách thể: + Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Là quyền sở hữu tài sản của con người và các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sở hữu của con người. + Tội lừa dối khách hàng: Là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự trong việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. - Mặt chủ quan: + Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Mục đích: là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Lỗi: tội phạm thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. + Tội lừa dối khách hàng: Động cơ, mục đích của người phạm tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, động cơ của người phạm tội lừa dối khách hàng bao giờ cũng vì động cơ tư lợi. Lỗi: tội phạm thực hiện với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp). - Mặt khách quan: + Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Dùng thủ đoạn gian dối làm cho người có tài sản tin tưởng vào sự gian dối mà trao tài sản cho người phạm tội. + Tội lừa dối khách hàng: Gian dối trong các lĩnh vực mua, bán bằng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo mặt hàng để lấy tiền của khách hàng. - Điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự: +Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Chiếm đoạt từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. + Tội lừa dối khách hàng: Không quy định định lượng giá trị tài sản chiếm đoạt được bằng thủ đoạn gian dối trong mua, bán. - Hình phạt cao nhất: + Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Hình phạt cao nhất là tù chung thân + Tội lừa dối khách hàng: Hình phạt cao nhất là 7 năm tù 3. Tội lừa dối khách hàng bị xử lý như thế nào? - Truy cứu trách nhiệm Hình sự đối với hành vi lừa dối khách hàng Các khung hình phạt của tội lừa dối khách hàng được quy định cụ thể tại Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) như sau: 1. Người nào trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; b) Thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm - Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lừa dối khách hàng Trong trường hợp hành vi lừa dối khách hàng chưa đủ các yếu tố cấu thành tội lừa dối khách hàng theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), người vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính các hành vi vi phạm lừa dối khách hàng theo quy định tại Điều 61 Nghị định 98/2020/NĐ-CP quy định các mức xử phạt. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến Hình sự và các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
Quay lén phim chiếu rạp có bị xử lý hình sự? Công ty luật VietLawyer xin chia sẻ về vấn đề này như sau: 1. Hành vi quay lén phim chiếu rạp là hành vi xâm phạm quyền tác giả Theo điểm e khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2009) thì phim chiếu rạp được xem là loại hình tác phẩm điện ảnh và được bảo hộ quyền tác giả theo quy định. Theo khoản 2 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2022) và điểm c khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2022) thì hành vi sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào là hành vi xâm phạm quyền tài sản của quyền tác giả. 2. Quay lén phim chiếu rạp có thể bị xử lý như thế nào? Các trường hợp có thể xảy ra: 2.1. Xử phạt hành chính Hành vi quay lén phim chiếu rạp rồi tung lên mạng nếu chưa đủ mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị phạt hành chính từ 15 triệu đồng đến 35 triệu đồng với cá nhân vi phạm theo Điều 18 Nghị định 131/2013/NĐ-CP (sửa đổi Nghị định 28/2017/NĐ-CP). Đồng thời, buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm đối với hành vi vi phạm. 2.2. Truy cứu trách nhiệm hình sự  Nếu hành vi quay lén phim chiếu rạp rồi tung lên mạng đủ yếu tố cấu thành tội phạm sau đây thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017). - Mặt khách thể Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan được pháp luật bảo hộ. Pháp luật bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan đến quyền tác giả được quy định tại Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2019. - Mặt khách quan a) Tội phạm có các hành vi khách quan như: + Sao chép các tác phẩm một cách trái phép với mục đích lợi nhuận; + Phân phối tác phẩm khi chưa được sự đồng ý của tác giả với mục đích lợi nhuận; + Mạo danh tác giả; + Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả; + Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả; + Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo; b) Về hậu quả Các hành vi trên chỉ cấu thành tội phạm nếu vi phạm với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Mặt chủ thể Là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại đủ điều kiện chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 75 BLHS. - Mặt chủ quan Tội phạm của tội xâm phạm quyền tác giả thực hiện hành vi với lỗi cố ý 2.3. Trách nhiệm Dân sự Theo quy định tại Điều 202 Luật sở hữu trí tuệ 2005, chủ sở hữu có thể khởi kiện yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp dân sự sau đây để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ: - Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm - Buộc xin lỗi, cải chính công khai - Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự - Buộc bồi thường thiệt hại. Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra gồm thiệt hai về vật chất và tinh thần; Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. 3. Quy định về hình phạt đối với tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan Điều luật quy định 02 khung hình phạt: – Đối với cá nhân phạm tội, điều luật quy định xử phạt như sau: + Khung 1 quy định người phạm tội theo quy định tại khoản 1 thì bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 500 triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến 03 năm. + Khung 2 quy định trường hợp người phạm tội theo quy định tại khoản 2 thì bị phạt tiền từ 300 triệu đồng đến 01 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, áp dụng đối với một trong các trường hợp sau: Có tổ chức; Phạm tội 02 lần trở lên; Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên; Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng trở lên; Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên. + Hình phạt bổ sung: Người phạm tội cũng có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. – Đối với pháp nhân thương mại phạm tội: + Pháp nhân thương mại bị phạt tiền từ 300 triệu đồng đến 01 tỷ đồng nếu thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 200 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 300 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; thu lợi bất chính từ 100 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. + Pháp nhân thương mại bị phạt tiền từ 01 tỷ đồng đến 03 tỷ đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm nếu phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. + Hình phạt bổ sung: Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 300 triệu đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về hành vi quay lén trong phim đang chiếu trong rạp. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Xác định nghĩa vụ trả khoản nợ trong thời kỳ hôn nhân sau khi ly hôn. Công ty luật VietLawyer xin chia sẻ về vấn đề này như sau: 1. Nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, sau khi ly hôn ai có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ? Căn cứ tại Điều 27 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định: "Điều 27. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng 1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này. 2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này." Tại đó tại Điều 37 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng như sau: "Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây: 1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm; 2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; 3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; 4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; 5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường; 6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan." Bên cạnh đó tại Điều 60 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn như sau: "Điều 60. Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn 1. Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác. 2. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều 27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết." Như vậy theo quy định trên, nghĩa vụ trả số nợ đã vay trong thời ky hôn nhân là nghĩa vụ chung của vợ chồng và cả hai đều có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ dù đã ly hôn. 2. Trường hợp nào được xác định là nợ riêng của vợ/chồng? Căn cứ tại Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng như sau: "Điều 45. Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng Vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây: 1. Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn; 2. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này; 3. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình; 4. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng." Do vậy, căn cứ vào mục đích sử dụng của khoản tiền vay nợ đó để xác định đó là nợ chung hay nợ riêng và vợ chồng có phải cùng trả hay không. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về nghĩa vụ trả nợ của vợ chồng sau khi ly hôn. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi dùng các thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác. Đây là một tội danh thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong Bộ luật Hình sự đặc biệt trong thời gian dịch Covid bùng phát hành vi lừa đảo qua mạng để chiếm đoạt tài sản ngày càng tăng lên. Vậy lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian dịch bệnh bùng phát bị xử lý như thế nào? Có bị coi là tăng nặng trách nhiệm hình sự? - VietLawyer sẽ giải đáp thắc mắc của bạn qua bài viết sau. 1. Quy định của Luật Hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản? Căn cứ theo Điểm c Khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Tái phạm nguy hiểm; đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này; c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này; c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Theo quy định nêu trên thì người nào lợi dụng dịch bệnh để lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì có thể bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. 2. Lợi dụng dịch bệnh để lừa đảo chiếm đoạt tài sản được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không? Căn cứ theo Điểm l Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau: 1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: a) Phạm tội có tổ chức; b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; d) Phạm tội có tính chất côn đồ; đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn; e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; g) Phạm tội 02 lần trở lên; h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên; k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác; l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác để phạm tội; n) Dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội; o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội; p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm. 2. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Theo quy định nêu trên thì việc lợi dụng dịch bệnh là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu tình tiết lợi dụng dịch bệnh được quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Như vậy, lợi dụng dịch bệnh để lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì không được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. 3. Thời hiệu thi hành bản án đối với người bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là bao nhiêu năm? Theo Khoản 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về thời hiệu thi hành bản án như sau: 1. Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên. 2. Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với người bị kết án được quy định như sau: a) 05 năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù từ 03 năm trở xuống; b) 10 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 03 năm đến 15 năm; c) 15 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 15 năm đến 30 năm; d) 20 năm đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình. 3. Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với pháp nhân thương mại là 05 năm. 4. Thời hiệu thi hành bản án hình sự được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì thời hiệu tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới. 5. Trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người bị kết án cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ ngày người đó ra trình diện hoặc bị bắt giữ. Như vậy, thời hiệu thi hành bản án đối với người bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 10 năm. Thời hiệu thi hành bản án hình sự được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì thời hiệu tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của bạn đọc. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn liên quan đến Hình sự và các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Cho vay lãi nặng là hình thức cho vay tiền hoặc tài sản vượt quá mức mà pháp luật cho phép thường được nhiều người hiểu là tín dụng đen hoặc vay lãi ngày,... vậy các công ty tài chính cho vay với lãi như vậy có bị coi là phạm pháp không? Cho vay lãi nặng có bị truy tố trách nhiệm hình sự không? - VietLawyer sẽ giải đáp thắc mắc của bạn qua bài viết dưới đây. 1. Quy định của Luật Dân sự về lãi suất Giao dịch cho vay mà khoản tiền lãi vượt quá mức mà Khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 quy định thì bị coi là cho vay nặng lãi, khoản lãi này không có hiệu lực và được coi là thu lợi bất chính. Khoản tiền lãi được coi là là thu lợi bất chính sẽ là căn cứ xác định trách nhiệm hình sự. 1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. 2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ. Như vậy, lãi suất giới hạn trong hợp đồng vay dân sự là không được vượt quá 20%/năm (tức 1,67%/tháng) của khoản tiền vay. 2. Trường hợp nào bị coi là cho vay nặng lãi Căn cứ theo quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) cho vay nặng lại được hiểu như sau: 1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 2. Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, theo quy định của Bộ luật Hình sự, nếu thực hiện hành vi cho vay với lãi suất trên 100%/năm và thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng trở hoặc lên đã bị phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều này. 3. Các công ty tài chính cho vay tiêu dùng trên 20%/năm có phạm luật? Như đã phân tích, lãi suất giới hạn trong hợp đồng vay dân sự là không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Tuy quy định này thường chỉ áp dụng với các cá nhân, tổ chức không phải ngân hàng hay tổ chức tín dụng. Ngân hàng và các tổ chức tín dụng là những đối tượng đặc biệt chịu sự điều chỉnh của các luật chuyên ngành. Cụ thể, lãi suất cho vay tiêu dùng của công ty tài chính được quy định tại Điều 9 Thông tư 43, sửa đổi, bổ sung bởi Khoản 12 Điều 1 Thông tư số 18/2019/TT-NHNN như sau: 1. Lãi suất cho vay tiêu dùng của công ty tài chính thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. 2. Công ty tài chính ban hành quy định về khung lãi suất cho vay tiêu dùng áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống trong từng thời kỳ, trong đó bao gồm mức lãi suất cho vay cao nhất, mức lãi suất cho vay thấp nhất đối với từng sản phẩm cho vay tiêu dùng. 3. Trong thời hạn 10 (mười) ngày làm việc kể từ ngày ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung khung lãi suất cho vay tiêu dùng, công ty tài chính phải gửi trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính cho Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố nơi công ty tài chính đặt trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, điểm giới thiệu dịch vụ báo cáo về khung lãi suất cho vay tiêu dùng theo Phụ lục số 04 ban hành kèm theo Thông tư này. Pháp luật không có quy định cụ thể mức lãi suất trần và mức lãi suất tối đa của hình thức cho vay tiêu dùng qua các công ty tài chính. Tuy nhiên, lãi suất cho vay tiêu dùng do Công ty tài chính tự điều chỉnh phải được Ngân hàng Nhà nước thông qua và cho phép áp dụng. Mặc dù trên thực tế các công ty tài chính thường cho vay tiêu dùng với lãi suất khá cao, trên mức lãi suất tối đa Bộ luật Dân sự quy định là 20%/năm nhưng điều đó được coi không vi phạm pháp luật. 4. Xử lý khoản tiền gốc và khoản tiền thu lợi bất chính mà người phạm tội thu được từ việc cho vay lãi nặng Căn cứ Công văn 4688/VKSTC-V14 được VKSNDTC ban hành ngày 09/10/2020 thì khoản tiền gốc và khoản tiền thu lợi bất chính mà người phạm tội thu được từ việc cho vay lãi nặng được xử lý như sau: - Về xử lý khoản tiền gốc và lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm Tiền gốc là phương tiện phạm tội nên cần phải tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Trường hợp người vay chưa trả tiền gốc thì buộc người vay phải nộp để sung vào ngân sách nhà nước. Đối với khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm thì xác định đây là khoản tiền do phạm tội mà có và phải bị tịch thu nộp ngân sách nhà nước. - Về xử lý khoản tiền thu lợi bất chính (khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất trên 20%/năm) Khoản lãi tương ứng với mức lãi suất trên 20%/năm là khoản tiền người phạm tội thu lợi bất chính của người vay nên được trả lại cho người vay. Theo đó: (1) Trường hợp người vay đã trả khoản lãi tương ứng với mức lãi suất trên 20%/năm cho người cho vay thì trả lại cho người vay khoản này. (2) Trường hợp người vay chưa trả khoản lãi tương ứng với mức lãi suất trên 20%/năm cho người cho vay, tức là chưa phát sinh khoản thu lợi bất chính thì hành vi cho vay tiêu trên chưa thỏa mãn đầy đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do vậy, không cần đặt ra nội dung "nếu chưa trả lại thì không cần tịch thu vì chưa có hậu quả" như Công văn 362/CV-VKSPT nêu. - Trường hợp người cho vay tính lãi suất khác nhau trong từng giai đoạn, có giai đoạn lãi suất gấp 05 lần trở lên thì mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS và tiền thu lợi bất chính thỏa mãn quy định tại Điều 201 BLHS (giai đoạn 1): nếu người vay chưa trả lãi của giai đoạn 1 này là cộng tổng khoản lãi đổ vào tiền gốc để tiếp tục vay với mức lãi suất mà pháp luật cho phép (giai đoạn 2); đến khi bị xử lý nhưng người vay vẫn chưa trả được tiền gốc và lãi của giai đoạn 1 mà chỉ trả lãi trên tổng gốc và lãi cả giai đoạn 2. Việc lập hợp đồng cộng tổng khoản lãi vào tiền gốc để tiếp tục cho vay với mức lãi suất mà pháp luật cho phép (ở giai đoạn 2) là việc 02 bên đã chốt được số tiền cho vay lãi nặng bằng hợp đồng vay nợ này nhằm che giấu khoản tiền thu lợi bất chính. Trong trường hợp này, cần xem xét xử lý trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội về hành vị cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS tại thời điểm và khoảng thời gian cho vay (ở giai đoạn 1) nếu thỏa mãn đầy đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại Điều 201 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến Hình sự và các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
Cho tôi hỏi cơ quan điều tra sau khi kết thúc điều tra thì phải gửi bản dự thảo kết luận hoặc kết luận điều tra cho ai trong một vụ án? Tôi là người bị hại trong một vụ án hình sự, tôi không biết khi cơ quan điều tra xong thì tôi có được biết kết quả điều tra không? Câu hỏi của anh Hoàng (Lào Cai). Đối với câu hỏi trên của anh Hoàng, Công ty luật VietLawyer xin giải đáp thắc mắc của anh như sau: Theo quy định tại Điều 232 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: "Điều 232. Kết thúc điều tra 4. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, Cơ quan điều tra phải giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can hoặc người đại diện của bị can; gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho người bào chữa; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ." Như vậy, Cơ quan điều tra phải giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp. Bên cạnh đó, phải giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can hoặc người đại diện của bị can; gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho người bào chữa; Và phải thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Như vậy, nếu bạn là bị hại thì bạn được thông báo về kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về việc bị hại có quyền được nhận bản kết luận điều tra. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Con trai tôi 16 tuổi, gần 1 tháng trước khi đi chơi cùng với bạn, rồi do xích mích nên đã có xô xát đánh nhau, lại dùng tua vít đâm vào sườn người ta gây thương tích gây ra là 36%. Ban đầu thì bên phía nguời bị hại có làm đơn tố cáo gửi công an. Nhưng sau đó thì bên phía gia đình tôi có đến thăm hỏi, trả tiền viện phí cũng như là đưa một khoản tiền bồi thường thiệt hại thì gia đình họ đã đồng ý rút đơn tố cáo và có trình bày với cơ quan công an tất cả là do hiểu nhầm. Nhưng bên phía công an lại trả lời rằng dù cho phía người bị hại có làm đơn bãi nại thì họ vẫn khởi tố vụ án bình thường. Cho tôi hỏi họ trả lời như thế có đúng quy định của pháp luật không và nếu nạn nhân đã làm đơn bãi nại thì con tôi có bị đi tù không? Cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho Công ty Luật VietLawyer. Trên quy định của pháp luật hiện hành chúng tôi trả lời bạn như sau:  1.Dùng tua vít đâm vào sườn gây thương tích 36% có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích với hình phạt bao nhiêu năm tù? Tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định như sau: 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%; c) Phạm tội 02 lần trở lên; d) Tái phạm nguy hiểm; đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc mộ ..." Như vậy, dùng tua vít đâm vào sườn gây thương tích 36% thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích với khung hình phạt từ 02 năm đến 06 năm. 2.Người mới 16 tuổi thì có phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích do đánh người gây tỷ lệ thương tích 36% không? Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: - Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. - Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này. Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, do đó em trai anh đủ tuổi đi tù theo quy định pháp luật. 3.Sau khi gia đình đã bồi thường và bên bị hại bãi nại thì phía công an có mang vụ việc cố ý gây thương tích với tỷ lệ thương tích 36% ra khởi tố không? Tại Điều 155 Bộ luật Tố tung hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Bộ luật Tố tụng hình sự có hiệu lực từ ngày 01/12/2021 quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau: - Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. - Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. - Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức. Trường hợp này, do tỷ lệ thương tích lên đến 36% rơi vào khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 nên cho dù đã bồi thường, và bên bị hại có bãi nại thì vẫn khởi tố bình thường. Việc bồi thường và bãi nại được xem là tình tiết giảm nhẹ. Như vậy, con bạn sẽ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Khoản thu lợi bất chính từ việc cho vay nặng lãi là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được hay số tiền lãi thu được của từng người vay? 1. Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự trong vụ án cho vay nặng lãi được xác định như thế nào? Căn cứ Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về lãi suất cho vay như sau: Lãi suất 1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Theo quy định thì lãi suất vay do các bên thỏa thuận với nhau. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Do đó, khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự trong vụ án cho nay nặng lãi là số tiền lãi thu được sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất theo quy định. 2. Khoản thu lợi bất chính từ việc cho vay nặng lãi từ bao nhiêu trở lên thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự? Căn cứ Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi điểm i khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) có quy định về tội cho vay nặng lãi như sau: Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự 1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 2. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự và khoản thu lợi bất chính từ việc cho vay nặng lãi từ 30.000.000 đồng thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự 3. Khoản thu lợi bất chính từ việc cho vay nặng lãi là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được hay số tiền lãi thu được của từng người vay? Theo khoản 1 Mục I Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019 thì khoản thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự trong vụ án cho vay nặng lãi được quy định như sau: Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả những người vay, nếu hành vi cho vay lãi nặng được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian. Trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội từ 100 triệu đồng trở lên, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với trị giá tài sản chiếm đoạt, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015. 4. Xác định số tiền thu lợi bất chính để xử lý trách nhiệm hình sự hành vi cho vay nặng lãi như thế nào? Đối với quy định về xác định số tiền thu lợi bất chính để xử lý trách nhiệm hình sự cho hành vi cho vay nặng lãi thì tại Điều 6 Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP quy định cụ thể như sau: - Trường hợp cho vay lãi nặng đã hết thời hạn vay theo thỏa thuận thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay phải trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự trong cả kỳ hạn vay. - Trường hợp cho vay lãi nặng chưa hết thời hạn vay theo thỏa thuận mà bị phát hiện thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay phải trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự tính đến thời điểm cơ quan có thẩm quyền phát hiện và ngăn chặn. - Trường hợp bên vay đã trả tiền lãi trước hạn và các khoản thu trái pháp luật khác thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay thực tế đã trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. 5. Xử lý đối với khoản tiền gốc và khoản thu lợi bất chính trong tội cho vay nặng lãi Đối với tiền gốc và lãi trong mức  20%/năm: Tiền gốc là phương tiện phạm tội của người cho vay nặng lãi vì vậy khoản tiền này sẽ bị tịch thu theo quy định của điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015. Đối với trường hợp người vay chưa trả tiền gốc thì buộc người vay phải nộp để bổ sung vào ngân sách nhà nước. Đối với khoản tiền lãi tương ứng mức 20%/năm sẽ được xác định đây là khoản tiền do phạm tội mà có nên khoản tiền ấy sẽ bị tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định. Đối với khoản thu lợi bất chính: Theo quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự thì: “Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”. Do đó, khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất trên 20%/năm là khoản tiền mà người phạm tội thu lợi bất chính của người vay nên được trả lại cho người vay tiền. Trừ trường hợp người vay sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp (như đánh bạc, mua bán trái phép chất ma túy...) thì khoản tiền thu lợi bất chính bị tịch thu sung công quỹ nhà nước. Trường hợp người vay chưa trả khoản lãi tương ứng với mức lãi suất trên 20%/năm cho người cho vay, tức là chưa phát sinh khoản thu lợi bất chính thì hành vi cho vay nêu trên chưa thỏa mãn đầy đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo Điều 201 Bộ luật Hình sự hiện hành về Tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự. Do đó, trong trường hợp này sẽ không xem xét đến việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với người cho vay. Đây là hướng dẫn rất quan trọng của Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao để xác định tội phạm cho vay nặng lãi tại Công văn 4688/VKSTC-V14. Đối với trường hợp tính lãi suất khác nhau trong từng giai đoạn cho vay: Trường hợp khoản tiền vay lúc đầu được tính lãi suất vượt quá 20%/năm và khoản tiền thu lợi bất chính thỏa mãn điều kiện tại Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 (giai đoạn 1), người vay chưa trả lãi cho giai đoạn này mà cộng dồn khoản lãi đó vào tiền gốc để tiếp tục vay với lãi suất cho phép của pháp luật (giai đoạn 2), đến lúc bị xử lý người vay vẫn chưa trả được tiền gốc và lãi của giai đoạn 1 mà chỉ trả lãi trên tổng nợ. Trường hợp này cần phải xem xét trách nhiệm hình sự đối với người cho vay về hành vi phạm tội cho vay nặng lãi, kể từ thời điểm cho vay với lãi suất vượt quá 20%/năm ở giai đoạn 1. Vì bản chất của hợp đồng vay ở giai đoạn 2 là thỏa thuận chốt nợ của hai bên bằng hợp đồng vay nợ nhằm che giấu khoản tiền thu lợi bất chính của bên cho vay đối với hành động cho vay này. Trên đây là những chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666
Cho vay nặng lãi bị xử phạt hành chính bao nhiêu? Có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không? 1.Lãi suất cho vay hiện nay là bao nhiêu? Căn cứ theo Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau: "Điều 463. Hợp đồng vay tài sản Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định." Theo Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau: "Điều 468. Lãi suất 1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. 2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ." Như vậy, tổ chức, cá nhân nào cho vay thỏa thuận lãi suất vượt quá 20%/năm thì sẽ trái với quy định của pháp luật và có thể sẽ phải chịu các loại trách nhiệm sau đây: 1.1. Trách nhiệm hành chính Căn cứ tại khoản 4 Điều 12 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định phạt vi phạm như sau: "Điều 12. Vi phạm các quy định về quản lý ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự ... 4. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: …. đ) Không đăng ký ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự mà cho vay tiền có cầm cố tài sản hoặc không cầm cố tài sản nhưng lãi suất cho vay vượt quá tỷ lệ lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự; ... 7. Biện pháp khắc phục hậu quả: a) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được đối với hành vi quy định tại các điểm đ, i, k, l, m, n và r khoản 3; các điểm d, đ và k khoản 4 và điểm b khoản 5 Điều này; b) Buộc nộp lại giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự, chứng chỉ nghiệp vụ bảo vệ đối với hành vi quy định tại điểm d khoản 3 Điều này." Như vậy, trường hợp không đăng ký ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự mà cho vay tiền quá tỷ lệ lãi suất quy định thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Ngoài ra tại điểm a khoản 7 Điều này thì sẽ phải buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được đối với hành vi cho vay lãi vượt mức quy định. 1.2. Trách nhiệm hình sự Hành vi cho vay nặng lãi mà đủ yếu tố cấu thành tội phạm sau đây thì người cho vay có thể phải chịu trách nhiệm hình sự: - Mặt khách thể Xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước về tín dụng mà cụ thể là trật tự trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ; xâm phạm đến lợi ích của công dân. - Mặt chủ thể Chủ thể “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. - Mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý - Mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội cho vay lãi nặng thể hiện ở một trong các hành vi sau: + Cho người khác vay và áp đặt mức lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự (BLDS), thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên;  + Cho vay lãi gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS, thu lợi bất chính chưa đến 30.000.000 đồng nhưng trước đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cho vay lãi nặng hoặc đã bị kết án về tội cho vay lãi nặng, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Điều 201 Bộ luật hình sự quy định 02 khung hình phạt, cụ thể: - Người phạm tội theo quy định tại Khoản 1 Điều 201 (tội phạm ít nghiêm trọng) thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. - Người phạm tội theo quy định tại Khoản 2 Điều 201 (tội phạm ít nghiêm trọng) thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính nêu trên, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm. Trên đây là những chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666
 
hotline 0927625666