BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Di chúc có bắt buộc phải công chứng không? - Di chúc là văn bản hoặc lời nói thể hiện ý chí, nguyện vọng của một người trong việc định đoạt tài sản, chuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho người khác sau khi chết. Vậy di chúc có bắt buộc phải công chứng không? Công ty Luật VietLawyer xin tư vấn như sau: 1. Di chúc có bắt buộc phải công chứng không? Căn cứ theo Điều 627 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hình thức của di chúc, theo đó di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Đồng thời, tại Điều 628 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về di chúc bằng văn bản gồm: di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có công chứng; di chúc bằng văn bản có chứng thực. Như vậy, pháp luật không quy định di chúc bắt buộc phải được công chứng mà có thể được lập dưới nhiều hình thức khác nhau theo như quy định tại Điều 628 Bộ luật Dân sự 2015. 2. Di chúc bằng văn bản nhưng không có công chứng, chứng thực được coi là hợp pháp khi nào? Căn cứ theo Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về di chúc hợp pháp:  " Điều 630. Di chúc hợp pháp 1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép; b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật. 2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. 3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. 4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này. 5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng." Theo đó, đối với di chúc được lập bằng văn bản mà không có công chứng, chứng thực thì chỉ được coi là hợp pháp nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau: - Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; - Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật. 3. Nếu di chúc đã được công chứng thì có được sửa đổi, bổ sung nội dung di chúc không? Tại Điều 56 Luật Công chứng 2014 quy định về việc công chứng di chúc như sau: "Điều 56. Công chứng di chúc 1. Người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc, không ủy quyền cho người khác yêu cầu công chứng di chúc. 2. Trường hợp công chứng viên nghi ngờ người lập di chúc bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình hoặc có căn cứ cho rằng việc lập di chúc có dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép thì công chứng viên đề nghị người lập di chúc làm rõ, trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng di chúc đó. Trường hợp tính mạng người lập di chúc bị đe dọa thì người yêu cầu công chứng không phải xuất trình đầy đủ giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này nhưng phải ghi rõ trong văn bản công chứng. 3. Di chúc đã được công chứng nhưng sau đó người lập di chúc muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc thì có thể yêu cầu bất kỳ công chứng viên nào công chứng việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ đó. Trường hợp di chúc trước đó đang được lưu giữ tại một tổ chức hành nghề công chứng thì người lập di chúc phải thông báo cho tổ chức hành nghề công chứng đang lưu giữ di chúc biết việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đó." Như vậy, theo quy định nêu trên, di chúc đã được công chứng vẫn có thể được sửa đổi, bổ sung. Khi đó mẹ bạn có thể yêu cầu bất kỳ công chứng viên nào công chứng việc sửa đổi, bổ sung đó. Trường hợp di chúc trước đó của mẹ bạn đang được lưu giữ tại một tổ chức hành nghề công chứng thì mẹ bạn phải thông báo cho tổ chức hành nghề công chứng đang lưu giữ di chúc biết việc sửa đổi, bổ sung di chúc đó. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật VietLawyer, quý khách hàng có thắc mắc cần tư vấn hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp kịp thời.
Xác định nghĩa vụ trả khoản nợ trong thời kỳ hôn nhân sau khi ly hôn. Công ty luật VietLawyer xin chia sẻ về vấn đề này như sau: 1. Nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, sau khi ly hôn ai có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ? Căn cứ tại Điều 27 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định: "Điều 27. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng 1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này. 2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này." Tại đó tại Điều 37 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng như sau: "Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây: 1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm; 2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; 3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; 4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; 5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường; 6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan." Bên cạnh đó tại Điều 60 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn như sau: "Điều 60. Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn 1. Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác. 2. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều 27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết." Như vậy theo quy định trên, nghĩa vụ trả số nợ đã vay trong thời ky hôn nhân là nghĩa vụ chung của vợ chồng và cả hai đều có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ dù đã ly hôn. 2. Trường hợp nào được xác định là nợ riêng của vợ/chồng? Căn cứ tại Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng như sau: "Điều 45. Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng Vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây: 1. Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn; 2. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này; 3. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình; 4. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng." Do vậy, căn cứ vào mục đích sử dụng của khoản tiền vay nợ đó để xác định đó là nợ chung hay nợ riêng và vợ chồng có phải cùng trả hay không. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về nghĩa vụ trả nợ của vợ chồng sau khi ly hôn. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Quay lén phim chiếu rạp có bị xử lý hình sự? Công ty luật VietLawyer xin chia sẻ về vấn đề này như sau: 1. Hành vi quay lén phim chiếu rạp là hành vi xâm phạm quyền tác giả Theo điểm e khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2009) thì phim chiếu rạp được xem là loại hình tác phẩm điện ảnh và được bảo hộ quyền tác giả theo quy định. Theo khoản 2 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2022) và điểm c khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2022) thì hành vi sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào là hành vi xâm phạm quyền tài sản của quyền tác giả. 2. Quay lén phim chiếu rạp có thể bị xử lý như thế nào? Các trường hợp có thể xảy ra: 2.1. Xử phạt hành chính Hành vi quay lén phim chiếu rạp rồi tung lên mạng nếu chưa đủ mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị phạt hành chính từ 15 triệu đồng đến 35 triệu đồng với cá nhân vi phạm theo Điều 18 Nghị định 131/2013/NĐ-CP (sửa đổi Nghị định 28/2017/NĐ-CP). Đồng thời, buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm đối với hành vi vi phạm. 2.2. Truy cứu trách nhiệm hình sự  Nếu hành vi quay lén phim chiếu rạp rồi tung lên mạng đủ yếu tố cấu thành tội phạm sau đây thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017). - Mặt khách thể Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan được pháp luật bảo hộ. Pháp luật bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan đến quyền tác giả được quy định tại Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2019. - Mặt khách quan a) Tội phạm có các hành vi khách quan như: + Sao chép các tác phẩm một cách trái phép với mục đích lợi nhuận; + Phân phối tác phẩm khi chưa được sự đồng ý của tác giả với mục đích lợi nhuận; + Mạo danh tác giả; + Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả; + Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả; + Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo; b) Về hậu quả Các hành vi trên chỉ cấu thành tội phạm nếu vi phạm với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Mặt chủ thể Là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại đủ điều kiện chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 75 BLHS. - Mặt chủ quan Tội phạm của tội xâm phạm quyền tác giả thực hiện hành vi với lỗi cố ý 2.3. Trách nhiệm Dân sự Theo quy định tại Điều 202 Luật sở hữu trí tuệ 2005, chủ sở hữu có thể khởi kiện yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp dân sự sau đây để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ: - Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm - Buộc xin lỗi, cải chính công khai - Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự - Buộc bồi thường thiệt hại. Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra gồm thiệt hai về vật chất và tinh thần; Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. 3. Quy định về hình phạt đối với tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan Điều luật quy định 02 khung hình phạt: – Đối với cá nhân phạm tội, điều luật quy định xử phạt như sau: + Khung 1 quy định người phạm tội theo quy định tại khoản 1 thì bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 500 triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến 03 năm. + Khung 2 quy định trường hợp người phạm tội theo quy định tại khoản 2 thì bị phạt tiền từ 300 triệu đồng đến 01 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, áp dụng đối với một trong các trường hợp sau: Có tổ chức; Phạm tội 02 lần trở lên; Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên; Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng trở lên; Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên. + Hình phạt bổ sung: Người phạm tội cũng có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. – Đối với pháp nhân thương mại phạm tội: + Pháp nhân thương mại bị phạt tiền từ 300 triệu đồng đến 01 tỷ đồng nếu thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 200 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 300 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; thu lợi bất chính từ 100 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. + Pháp nhân thương mại bị phạt tiền từ 01 tỷ đồng đến 03 tỷ đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm nếu phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. + Hình phạt bổ sung: Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 300 triệu đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về hành vi quay lén trong phim đang chiếu trong rạp. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Hỗn hợp lỗi - Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Trong Luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản. Có bốn hình thức lỗi chính bao gồm: Lỗi cố ý trực tiếp; Lỗi cố ý gián tiếp; Lỗi vô ý vì quá tự tin; Lỗi vô ý do cẩu thả. Ngoài ra có một trường hợp lỗi đặc biệt, đó là hỗn hợp lỗi. 1. Khái niệm hỗn hợp lỗi Trường hơp hỗn hợp lỗi là trường hợp trong cùng một cấu thành tội phạm có hai loại lỗi (cố ý và vô ý) đối với những tình tiết khách quan khác nhau. Lỗi là biểu hiện của mặt chủ quan, lỗi luôn là lỗi của tất cả các tình tiết khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm cơ bản. Không có những lỗi khác nhau đối với cùng các tình tiết khách quan được mô tả trong cùng trong một cấu thành tội phạm cơ bản. Không thể nào có trường hơp cố ý đối với hành vi mà vô ý đối với hậu quả. Ngược lại, cũng không thể có trường hợp vô ý đối với hành vi mà cố ý đối với hậu quả vì khi thực hiện hành vi với lỗi vô ý, người phạm tội không thể nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi thì làm sao có thể hình dung được khả năng gây ra nguy hiểm và thấy được tính nguy hiểm xảy ra cho xã hội. 2. Đặc điểm của hỗn hợp lỗi  Cấu thành tội phạm cơ bản chỉ có lỗi cố ý hoặc vô ý. Hỗn hợp lỗi chỉ xảy ra trong trường hợp có cấu thành tội phạm tăng nặng của các tội phạm cố ý với tình tiết định khung tăng nặng là hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ, khoản 4 Điều 104 về tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người. Hậu quả “chết người” là tình tiết định khung tăng nặng, hậu quả này do lỗi vô ý của người phạm tội, và hành vi gây thương tích (tình tiết khách quan quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản) được thực hiện với lỗi cố ý. Cần phân biệt “hỗn hợp lỗi” với “lỗi hỗn hợp”. Lỗi hỗn hợp là trường hợp có hành vi gây thiệt hại nhưng đó là kết quả của nhiều bên có lỗi, có thể có lỗi của người phạm tội, người bị hại hoặc của những người thứ ba. Chẳng hạn, tai nạn giao thông xảy ra, có thể do lỗi của người lái xe, người bị hại bất cẩn, hoặc có một người nào đó gây ra chướng ngại. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer về hỗn hợp lỗi. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là gì? Để hiểu rõ vấn đề này, VietLawyer xin gửi tới Quý bạn đọc bài viết dưới đây: 1. Khái niệm Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự 2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự - 05 năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng (các tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến ba năm). - 10 năm đối với các tội phạm nghiêm trọng (các tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù). - 15 năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng (các tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm) - 20 năm đối với các tội đặc biệt nghiêm trọng (các tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình). Nếu các thời hạn trên đã qua mà các cơ quan bảo vệ pháp luật vì lí do nào đó không phát hiện được, hoặc phát hiện được nhưng bỏ qua không điều tra, truy tố, xét xử thì người phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mà họ đã thực hiện. 3. Cách tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nói chung được tính từ thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện. Nhưng ở một số trường hợp đặc biệt thì cách tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự có điểm khác. Cụ thể: - Nếu trong thời hạn quy định tại Khoản 2 Điều 27 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới. - Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ (khoản 2 Điều 27 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017). 4. Không tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự khi nào? Do những tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 và 4 Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp được quy định tại Khoản 3 và khoản 4 Điều 354 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 nên luật hình sự Việt Nam không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các loại tội này. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Thế nào là người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự? Sau đây, VIETLAWYER sẽ giúp quý đọc giả tìm hiểu. 1. Khái niệm người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự Trước tiên, về khái niệm đại diện, “Đại diện” là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Điều luật trên quy định cho phép trong những trường hợp cá nhân, pháp nhân không có hoặc không đủ điều kiện để xác lập và thực hiện giao dịch dân sự thì có thể thông qua cá nhân, pháp nhân khác xác lập và thực hiện giao dịch đó. Vì thế: Đại diện là quan hệ giữa một bên là người đại diện với bên kia là người được đại diện, theo đó, người đại diện nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Về khái niệm đương sự, “Đương sự trong vụ việc dân sự” là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự. Về khái niệm người đại diện của đương sự, “Người đại diện của đương sự” là người tham gia tố tụng thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự trước toà án. Khoản 1 Điều 85 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) quy định về người đại diện như sau: “Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của bộ luật dân sự”. 2. Đặc điểm của người đại diện Sau khi đã nghiên cứu và phân tích, có thể kết luận đặc điểm của người đại diện như sau: Thứ nhất, Người đại diện của đương sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân nhưng thực tế thường là cá nhân có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Vai trò là người thay mặt cho đương sự tham gia các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự (TTDS) sẽ trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Bởi vậy, người đại diện thường là cá nhân có đủ năng lực hành vi TTDS. Pháp luật TTDS hiện hành có quy định các trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác cũng được xem là người đại diện cho đương sự, ví dụ: cơ quan dân số, gia đình, trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,… nhưng vẫn phải có người đại diện cho tổ chức là cá nhân tham gia TTDS. Để là người đại diện, cá nhân phải có đủ năng lực, nhận thức để tự mình xác lập, thực hiện các quyền cũng như nghĩa vụ liên quan trong TTDS. Cụ thể, cá nhân này phải đáp ứng các điều kiện về độ tuổi, khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình mà pháp luật quy định thì mới có thể trở thành người đại diện cho đương sự trong TTDS. Ngoài ra còn trường hợp cá biệt, tại khoản 3 Điều 138 BLDS quy định người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền. Thứ hai, Người đại diện của đương sự tham gia tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, vì lợi ích của đương sự. Vốn dĩ người đại diện của đương sự không phải chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung tranh chấp mà họ tham gia tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, vì lợi ích của đương sự, thực hiện thay đương sự các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Do đó, người có quyền, lợi ích, nghĩa vụ đối lập với đương sự sẽ không được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện của đương sự. Cũng vì đó, nếu người đại diện có quyền và lợi ích đối lập với đương sự thì mục đích tham gia tố tụng của người đại diện sẽ không còn nữa. Thứ ba, Người đại diện tham gia quan hệ tố tụng trên cơ sở quan hệ đại diện và nhân danh đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự. Người đại diện thường không tự có tư cách tố tụng, tư cách đó chỉ có được khi pháp luật quy định trong một số trường hợp nhất định hoặc được đương sự trao cho họ thông qua các cơ chế về đại diện. Ngoài ra cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật đã quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó. Thứ tư, Quyền và nghĩa vụ TTDS của người đại diện của đương sự phụ thuộc vào quyền và nghĩa vụ của đương sự và bản chất của quan hệ đại diện. Vì là thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự thông qua quan hệ đại diện, do đó, quyền và nghĩa vụ của người đại diện phụ thuộc vào nội dung quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Quyền, nghĩa vụ tố tụng của những đương sự ở vị trí tố tụng khác nhau thì người đại diện cũng khác, theo đó người đại diện của từng loại đương sự khác nhau thì phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác nhau. Ví dụ, người đại diện của nguyên đơn thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn và người đại diện của bị đơn thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn. Bởi vì quan hệ đại diện rất đa dạng nên người đại diện sẽ được thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự ở các mức độ khác nhau. Đơn cử, trong quan hệ đại diện theo ủy quyền thì người đại diện sẽ chỉ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng theo phạm vi ủy quyền mà đương sự đưa ra; hay trong quan hệ đại diện theo pháp luật, người đại diện được thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
07 trường hợp không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án Căn cứ Điều 19 Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Theo đó, không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án trong 07 trường hợp sau đây: 1. Yêu cầu đòi bồi thường do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước; 2. Vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội; 3. Đương sự đã được mời tham gia hòa giải, đối thoại hợp lệ lần 2 mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan hoặc không thể tham gia hòa giải, đối thoại được vì lý do chính đáng; 4. Một bên vợ hoặc chồng trong tranh chấp ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự; 5. Một trong các bên đề nghị không tiến hành hòa giải, đối thoại; 6. Một trong các bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính; 7. Trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về các trường hợp không tiến hành thủ tục hòa giải đối thoại tại Tòa án. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Thế nào là người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự? Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về điều kiện trở thành người đại diện đương sự trong tố tụng dân sự? Sau đây, VIETLAWYER sẽ giúp bạn tìm hiểu 1. Khái niệm về người đại diện trong tố tụng dân sự Khoản 1 Điều 85 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) quy định về người đại diện như sau: “Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của bộ luật dân sự”. 2. Một số điều kiện quy định đối với người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự 2.1. Người đại diện của đương sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân Để đảm bảo sự thống nhất với quy định của Bộ Luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015), BLTTDS 2015 quy định người đại diện của đương sự trong TTDS có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Việc quy định như vậy làm rõ hơn khả năng làm người đại diện của pháp nhân, chủ thể pháp nhân nhận thức rõ hơn về khả năng của mình và chủ động trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Ngoài ra theo BLTTDS 2015: “Cơ quan tổ chức cá nhân khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người được bảo vệ.". 2.2 Người đại diện của đương sự là cá nhân có năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc là pháp nhân có năng lực chủ thể Người đại diện của đương sự tham gia tố tụng để tiếp nhận và thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự, vì vậy mà người đại điện của đương sự phải có đủ điều kiện để tham gia quan hệ tố tụng như một đương sự một cách trực tiếp. Nói cách khác, người đại diện của đương sự phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ. Với trường hợp người đại diện là pháp nhân theo quy định của BLDS thì pháp nhân cũng phải đảm bảo năng lực chủ thể được quy định tại BLDS 2015. Một tổ chức đảm bảo đầy đủ các điều kiện để có tư cách pháp nhân (được quy định tại khoản 1 điều 74 BLDS 2015) thì đồng thời đã đảm bảo được năng lực chủ thể cho mình. Mặc dù pháp nhân là người đại diện nhưng thực hiện quyền và nghĩa vụ của pháp nhân lại phải thông qua cá nhân cụ thể là người đại diện của pháp nhân, do đó cá nhân đó cũng phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ. 2.3. Những người không được làm người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự Để đảm bảo tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm tìm ra sự thật và đem lại công lý cho người dân, pháp luật đã đề ra những đối tượng không được làm người đại diện. Bởi một khi những người này tham gia tố tụng với vị trí người đại diện cho đương sự có thể làm mất đi tính khách quan và công bằng trong tương quan lợi ích của các bên đối lập nhau. Điều 87 BLTTDS 2015 quy định những trường hợp không được làm người đại điện như sau: Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người được đại điện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện; Xuất phát từ việc đối lập nhau về quyền lợi nên nếu người này làm đại diện cho đương sự thì quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không thể được bảo vệ và nếu để họ làm người đại diện cho đương sự thì ý nghĩa của việc tham gia tố tụng của người đại diện và ý nghĩa của hành vi đại điện không còn giá trị. Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ việc. Tương tự như trên, một chủ thể đóng hai vai trò của hai phía đối lập trong một mối quan hệ thì không còn tính khách quan. Cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật. Nếu những chủ thể này tham gia tố tụng với tư cách người đại diện của cơ quan mình hoặc người đại điện theo pháp luật của người thân mình thì cũng sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ thể được đại điện mà vẫn đảm bảo khách quan cho quá trình tham gia tố tụng. Nếu họ được làm người đại diện theo uỷ quyền thì quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện chưa chắc đã là ưu tiên số một thậm chí còn ảnh hưởng tiêu cực đến việc tìm ra sự thật của vụ án. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Khi nào bán phá giá được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị nghiêm cấm theo quy định pháp luật? - Hiện nay, có rất nhiều người bán phá giá để cạnh tranh với đối thủ. Vậy khi nào bán phá giá được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật? Công ty Luật VietLawyer xin tư vấn như sau: 1. Khi nào bán phá giá được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị nghiêm cấm theo quy định pháp luật? Căn cứ Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018 quy định: "Điều 45. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm 1. Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh dưới các hình thức sau đây: a) Tiếp cận, thu thập thông tin bí mật trong kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu thông tin đó; b) Tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật trong kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó. 2. Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó. 3. Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp đưa thông tin không trung thực về doanh nghiệp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó. 4. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp đó. 5. Lôi kéo khách hàng bất chính bằng các hình thức sau đây: a) Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác; b) So sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được nội dung. 6. Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó. 7. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác bị cấm theo quy định của luật khác." Như vậy, theo quy định, việc bán phá giá được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị nghiêm cấm khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cũng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó. 2. Hành vi bán phá giá dưới giá thành toàn bộ thì bị xử phạt vi phạm hành chính như thế nào? Căn cứ Điều 21 Nghị định 75/2019/NĐ-CP quy định về hành vi bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ như sau: " Điều 21. Hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ 1. Phạt tiền từ 800.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó. 2. Phạt tiền gấp hai lần mức quy định tại khoản 1 Điều này đối với hành vi vi phạm tại khoản 1 Điều này trong trường hợp hành vi vi phạm được thực hiện trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên. 3. Hình thức xử phạt bổ sung: a) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính về cạnh tranh; b) Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm." Đồng thời, căn cứ khoản 5, 6, 7 Điều 4 Nghị định 75/2019/NĐ-CP quy định về mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính về cạnh tranh như sau: " Điều 4. Mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính về cạnh tranh 5. Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh là 2.000.000.000 đồng. 6. Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi khác vi phạm quy định của Nghị định này là 200.000.000 đồng. 7. Mức phạt tiền tối đa quy định tại Chương II Nghị định này áp dụng đối với hành vi vi phạm của tổ chức; đối với cá nhân có cùng hành vi vi phạm hành chính về cạnh tranh, mức phạt tiền tối đa bằng một phần hai mức phạt tiền tối đa đối với tổ chức." Như vậy, hành vi bán phá giá dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó có thể bị xử phạt vi phạm hành chính từ 800.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng. Đồng thời, áp dụng hình thức phạt bổ sung, gồm: - Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm. - Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Lưu ý: Mức phạt tiền trên chỉ áp dụng đối với hành vi vi phạm của tổ chức. Đối với cá nhân có cùng hành vi vi phạm thì mức phạt tiền sẽ bằng một phần hai mức phạt tiền đối với tổ chức. 3. Trường hợp người bán phá giá vi phạm lần đầu thì có được giảm nhẹ mức xử phạt vi phạm hành chính hay không? Căn cứ Điều 5 Nghị định 75/2019/NĐ-CP quy định về tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng như sau: "Điều 5. Tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng 1. Tình tiết giảm nhẹ trong xử phạt vi phạm các quy định pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh bao gồm: a) Người vi phạm đã có hành vi ngăn chặn, làm giảm bớt hậu quả của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại; b) Người vi phạm đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện vi phạm, xử lý vi phạm; c) Vi phạm do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc; d) Vi phạm lần đầu..." Như vậy, hành vi vi phạm lần đầu thuộc tình tiết giảm nhẹ trong xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, trong trường hợp người bán phá giá thực hiện hành vi vi phạm lần đầu thì có thể được giảm nhẹ mức xử phạt vi phạm hành chính. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật VietLawyer, quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ ngay với công ty chúng tôi để được giải đáp kịp thời.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. 1.Bảo lĩnh trong vụ án hình sự là gì ? Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. 2. Ai là người có thể xin bảo lĩnh cho bị can, bị cáo? Người xin bảo lĩnh cho bị can, bị cáo có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. - Trường hợp cơ quan, tổ chức có nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo (Bị can, bị cáo phải là người của cơ quan, tổ chức xin được bảo lĩnh) Việc cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. - Trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh thì phải là có ít nhất 02 người thân thích của bị can, bị cáo nhận bảo lĩnh. 02 cá nhân người thân thích phải là người đủ 18 tuổi trở lên, có nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. 3.Thời hạn bảo lĩnh Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. **Lưu ý: - Nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan theo quy định trên thì bị tạm giam. - Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh cho bị can, bị cáo. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Người nước ngoài có thể trở thành hướng dẫn viên du lịch nội địa tại Việt Nam hay không? - Hiện nay, ngành du lịch ở nước ta đang trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ, dịch vụ lữ hành càng ngày càng phát triển, tuy nhiên không phải ai cũng có thể trở thành hướng dẫn viên du lịch nội địa tại Việt Nam. Vậy người nước ngoài có thể trở thành hướng dẫn viên du lịch nội địa tại Việt Nam không? Công ty Luật VietLawyer xin trả lời như sau: 1. Người nước ngoài có thể trở thành hướng dẫn viên du lịch nội địa tại Việt Nam hay không?  Khoản 1 Điều 59 Luật Du lịch 2017 quy định về điều kiện để được cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch nội địa tại Việt Nam như sau: "Điều 59. Điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch 1. Điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch nội địa bao gồm: a) Có quốc tịch Việt Nam, thường trú tại Việt Nam; b) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; c) Không mắc bệnh truyền nhiễm, không sử dụng chất ma túy; d) Tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành hướng dẫn du lịch; trường hợp tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành khác phải có chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch nội địa." Khoản 1 Điều 3 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014 quy định về Người nước ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam. Theo quy định nêu trên, người nước ngoài không đáp ứng được điều kiện về quốc tịch để trở thành hướng dẫn viên du lịch nội địa tại Việt Nam. Vì vậy, người nước ngoài không thể trở thành hướng dẫn viên du lịch nội địa tại Việt Nam. 2. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành sử dụng người nước ngoài làm hướng dẫn viên du lịch nội địa Việt Nam thì bị phạt hành chính như thế nào? Điểm d khoản 13, điểm b khoản 15 Điều 7 Nghị định 45/2019/NĐ-CP quy định phạt vi phạm hành chính trong kinh doanh dịch vụ lữ hành thì doanh nghiệp nếu sử dụng người nước ngoài làm hướng dẫn viên du lịch nội địa tại Việt Nam thì có thể bị xử phạt từ 80.000.000 đồng đến 90.000.000 đồng. Ngoài ra doanh nghiệp vi phạm còn bị tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành từ 12 tháng đến 18 tháng. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật VietLawyer, quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ ngay với chúng tôi để được giải quyết kịp thời.
Người bán hàng phải bồi thường thiệt hại cho người mua, người tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa trong trường hợp nào? - Hiện nay, trên thị trường có đa dạng các loại sản phẩm, hàng hóa nhưng có một số loại hàng hóa không đảm bảo chất lượng vẫn còn xuất hiện khá nhiều trên thị trường. Vậy người bán hàng phải bồi thường thiệt hại cho người mua, người tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa trong trường hợp nào? Công ty Luật VietLawyer xin tư vấn như sau:  1. Khi hàng hóa không đảm bảo chất lượng thì khách hàng sẽ được bồi thường những gì? Căn cứ tại Điều 60 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007 có quy định về các thiệt hại phải bồi thường do hàng hóa không bảo đảm chất lượng gồm: - Thiệt hại về giá trị hàng hóa, tài sản bị hư hỏng hoặc bị hủy hoại. - Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ con người. - Thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác hàng hóa, tài sản. - Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. 2. Thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường do sản phẩm, hàng hóa có ghi hạn sử dụng không bảo đảm chất lượng mà gây thiệt hại là bao lâu? Căn cứ tại khoản 3 Điều 56 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007 thì thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường do sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại như sau: - Đối với sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường là 2 năm, kể từ thời điểm các bên được thông báo về thiệt hại với điều kiện thiệt hại xảy ra trong thời hạn sử dụng của sản phẩm; - Đối với điều kiện thiệt hại xảy ra trong thời hạn sử dụng của sản phẩm, hàng hóa có ghi hạn sử dụng và 5 năm kể từ ngày giao hàng đối với sản phẩm, hàng hóa không ghi hạn sử dụng.   3. Người bán hàng phải bồi thường thiệt hại cho người mua, người tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa trong trường hợp nào? Căn cứ tại khoản 2 Điều 61 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì  người bán hàng phải bồi thường thiệt hại cho người mua, người tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa trong trường hợp: - Thiệt hại phát sinh do lỗi của người bán hàng không bảo đảm chất lượng hàng hóa - Không thuộc các trường hợp người bán hàng không phải bồi thường cho người mua, người tiêu dùng. - Việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo thoả thuận giữa các bên có liên quan hoặc theo quyết định của toà án hoặc trọng tài. 4. Người tiêu dùng sử dụng hàng hóa đã hết hạn sử dụng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về bên sản xuất, nhập khẩu hay bên bán hàng? Căn cứ tại điểm a khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 62 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007 thì người tiêu dùng sử dụng hàng hóa đã hết hạn sử dụng thì người sản xuất, nhập khẩu và người bán hàng đều không phải bồi thường thiệt hại. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật VietLawyer, quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp kịp thời.
 
hotline 0927625666