Hàng giả, hàng nhái: Cuộc chiến không hồi kết - Như nhiều quốc gia đang phát triển khác, Việt Nam đang phải vật lộn để chống lại hàng giả. Không thể phủ nhận sử chuyển biến rõ rệt trong nhận thức của người tiêu dùng và năng lực xử lý của cơ quan chức năng trước nạn hàng giả, hàng nhái.
1. Thực trạng hàng giả hàng nhái tại Việt Nam
Theo thống kê lũy kế 9 tháng đầu năm 2020 của Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia, lực lượng QLTT trên cả nước đã phát hiện, xử lý 138.374 vụ việc liên quan đến hàng giả (giảm 7,5% so với cùng kỳ năm 2019).
Tuy nhiên, do hàng giả đã ăn sâu và len lỏi vào mọi ngóc ngách của thị trường nên cuộc chiến chống hàng giả dường như là bất tận. Sự phát triển của thương mại điện tử cũng khiến hàng giả, hàng nhái lan tràn nhanh chóng và khó kiểm soát hơn. ICC đã ước tính rằng giá trị của hàng giả trên toàn thế giới sẽ vượt quá 2 tỷ USD trong tương lai, tương đương với 3% GDP toàn cầu. Việt Nam, một thị trường béo bở cho những kẻ làm hàng giả, chắc chắn sẽ có tên trong danh sách.
Trong số các ngành hàng, mỹ phẩm và dược phẩm là hai trong số những ngành hàng thường có số lượng và chủng loại hàng giả cao nhất trên thị trường. Đáng nói hơn, đây là những lĩnh vực ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Trên thực tế, nhiều người tiêu dùng đã phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề về sức khỏe, thậm chí tử vong do sử dụng mỹ phẩm, dược phẩm giả.
2. Phân loại hàng giả
Theo luật hiện hành, có ba loại hàng giả:
(1) Loại thứ nhất: Hàng hóa bị làm giả về giá trị, công dụng hoặc các chỉ tiêu chất lượng, đặc tính kỹ thuật tạo nên công dụng chính của hàng hóa không đạt yêu cầu (dưới 70%);
(2) Loại thứ hai: Hàng hóa có nhãn, bao bì ghi thông tin gian dối nhằm đánh lừa người tiêu dùng về các nội dung: nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà phân phố hàng hóa; số đăng ký, số công bố, số mã vạch, xuất xử hàng hóa hoặc nới sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa;
(3) Loại thứ ba: Nhãn mác, bao bì giả. Điều này có nghĩa là bản thân các nhãn và bao bi là hàng giả. Trong trường hơp này thông tin ghi trên nhãn, bao bì có thể đúng nhưng không phải do tổ chức có quyền đối với hàng hóa in ra. So với loại thứ hai, việc nhận biết nhãn mác, bao bì giả khó khăn hơn do kỹ thuật, công cụ làm giả ngày càng tinh vi.
Trên thực tế, khi tiến hành kiểm tra các mặt hàng nghi ngờ là hàng giả, cơ quan chức năng thường yêu cầu doanh nghiệp xuất trình một, một số hoặc tất cả các loại giấy tờ sau. Tùy từng trường hợp, nghi phạm sẽ được yêu cầu cung cấp các giấy tờ liên quan khác.
(i) Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O);
(ii) Hợp đồng mua bán;
(iii) Hóa đơn, chứng từ hợp lệ liên quan đến số lượng, khối lượng hàng hóa nghi vấn làm giả;
(iv) Tài liệu liên quan đến nguyên vật liệu sản xuất ra hàng hóa.
Tuy nhiên, người tiêu dùng bình thường khó có thể truy cập và kiểm tra các tài liệu trên. Do đó, các tùy chọn thủ công phổ biến nhất cho người tiêu dùng là xem giá bán và nơi bán sản phẩm.
Hàng giả thường có giá bán rẻ hơn hàng thật nhiều lần do chi phí sản xuất hàng giả không quá đắt. Điều này đánh trúng vào mong muốn được dùng hàng tốt giá rẻ của đa số người tiêu dùng. Vì vậy, khi phát hiện những sản phẩm có giá rẻ hoặc kèm theo những khuyến mại bất thường, người tiêu dùng nên cân nhắc để không mua và sử dụng những sản phẩm đó. Về cửa hàng, người tiêu dùng nên chọn những nơi có uy tín trên thị trường. Đặc biệt đối với các sản phẩm liên quan trực tiếp đến sức khỏe như dược phẩm, mỹ phẩm, người tiêu dùng nên hạn chế mua hàng qua các trang mạng xã hội hay sàn thương mại điện tử vì khó truy xuất nguồn gốc.
3. Xử phạt đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả
Theo quy định hiện hành, các cá nhân, tổ chức bị kết tội sản xuất, buôn bán hàng giả thường bị xử phạt hành chính và hình sự. Trong một số trường hợp, họ còn phải chịu trách nhiệm bồi thường dân sự nếu bị kiện ra tòa.
Hiện nay, mức xử phạt hành chính đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả lên tới 200.000.000 đồng đối với cá nhân và 400.000.000 đồng đối với tổ chức. Trường hợp đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, cá nhân còn có thể bị phạt tù đến 15 năm và phạt tiền đến 50.000.000 đồng. Riêng đối với hàng hóa ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người như thực phẩm, thuốc chữa bệnh, cá nhân có thể bị phạt tù đến chung thân.
Đối với pháp nhân, mức phạt đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả nói chung sẽ bị phạt tới 9 tỷ đồng hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Riêng với hàng hóa ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người như thực phẩm hay thuốc men, mức phạt sẽ lên tới 20 tỷ đồng.
4. Kết luận
Nhìn chung, mức xử phạt hành chính có thể chưa đủ nặng so với lợi nhuận khổng lồ từ thị trường hàng giả. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất trên thực tế lại đến từ năng lực chuyên môn và thủ tục của các cơ quan chức năng. Trước sự gia tăng nhanh chóng của hàng giả, các cơ quan nhà nước cần được trang bị thêm phương tiện và nghiệp vụ. Song song đó, người tiêu dùng cũng cần trang bị cho mình khả năng nhận biết hàng giả, hàng nhái và thay đổi thói quen tiêu dùng.
Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer về vấn nạn hàng giả, hàng nhái. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/