DỊCH VỤ LUẬT SƯ HÌNH SỰ

Hiếp dâm là một tội phạm nguy hiểm đã được Pháp luât quy định rõ trong Bộ Luật hình sự qua các thời kỳ, kèm theo đó là các chế tài rõ ràng mang nặng tính răn đe để ngăn các tội phạm nguy hiểm tái diễn. Song từ trước đến nay, có định kiến suy nghĩ là chỉ có đàn ông là người thực hiện hành vi hiếp dam đối với phụ nữ. Vậy có trường hợp nào phụ nữ mới là chủ thể của tội hiếp dâm hay không? I: Pháp luật quy định như thế nào về tội hiếp dâm:  Theo Điều 141 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội "Hiếp dâm", theo đó:  "Người nào dùng vũ lực, đe doạ sử dụng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm." Theo như Pháp luật quy định, hiếp dâm là hành vi của chủ thể thực hiện hành vi cố ý trực tiếp như: sử dụng vũ lực, đe doạ sử dụng vũ lực, hoặc lợi dụng tính trạng không tự chủ được của nạn nhân để thực hiện hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục trái ý muốn khác có thể được xem là hành vi hiếp dâm II: Phụ nữ có thể coi là chủ thể của tội hiếp dâm hay không?  Chủ thể của tội phạm được định nghĩa là cá nhân thực hiện các hành vi được Luật Hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.  Để được đánh giá là chủ thể của tội phạm yêu cầu 02 dấu hiệu: Đó là dấu hiệu về năng lực trách nhiệm hình sự và dấu hiệu về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Vì vậy chủ thể của tội "Hiếp dâm" được xác định là cá nhân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi sử dụng vũ lực, đe doạ sử dụng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không tự chủ được của nạn nhân thực hiện các hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục trái ý muốn khác đối với nạn nhân.  Nếu phụ nữ là người đủ các điều kiện về trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và thực hiện các hành vi quy định tại điều 141 Bộ Luật Hình sự 2015 hoàn toàn có thể được đánh giá là chủ thể của tội phạm hiếp dâm.  Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer qua câu hỏi "Phụ nữ có thể là chủ thể của tội hiếp dâm hay không?" theo quy định của Bộ Luật Hình sự. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến Hình sự và các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
Theo quy định của Pháp luật Hình sự: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự." Ngoài quy định về các hành vi nguy hiểm cho xã hội, Pháp luật còn quy định cụ thể những người thực hiện phải có năng lực trách nhiệm hình sự. Vậy trong trường hợp cá nhân sử dụng rượu bia, chất kích thích không kiểm soát được bản thân mà phạm tội thì có được coi là tội phạm hay không?  I: Tình trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự là gì? Quy định của Pháp luật về mất năng lực trách nhiệm hình sự như thế nào? Theo Điều 21 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tình trạng mất năng lực trách nhiệm hính sự:  "Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự." Người được coi là mất năng lực trách nhiệm hình sự là những đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng vì nguyên nhân như mắc các bệnh tâm thần, bệnh làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Khi chứng minh được người thực hiện hành vi có dấu hiệu phạm tội đang trong tình trạng mất năng lực trách nhiệm dân sự thì sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật.  Đối với những cá nhân trong mất năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại điều 21 BLHS 2015 sẽ bắt buộc phải chữa bệnh theo Điều 49 BLHS 2015: Điều 49: Bắt buộc chữa bệnh "1. Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại Điều 21 tại bộ luật này, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. 2,  Đối với người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự 3. Đối với người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, nếu không có lý do khác để miễn chấp hành hình phạt, thì người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt. Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù." II: Trường hợp sử dụng rượu bia khiến mất kiểm soát phạm tội có được coi mất năng lực trách nhiệm hình sự hay không? Khi không kiểm soát được bản thân sử dụng rượu bia chất kích thích mạnh phạm tội thì đối tượng thực hiện hành vi đó vẫn sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm.  Căn cứ theo Điều 13: Phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác: "Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự." Chủ thể của tội phạm khi thực hiện hành vi trong khi sử dụng rượu bia chất kích thích mạnh khiến bản thân không làm chủ được hành vi của bản thân đã xác định được rõ bản thân và dự tính được những nguy hiểm khi uống rượu gây ra nhưng vẫn thực hiện việc uống rượu và chất kích thích. Vì vậy, khi người có phạm tội khi sử dụng rượu bia chất kích thích mất kiểm soát thì không được coi là người mất năng lực trách nhiệm hình sự.  Trên đây là nhận định của Công ty Luật VietLawyer, quý khách hàng có nhu cầu tư vấn, hỗ trợ vui lòng liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn hỗ trợ giải quyết kịp thời.
Thời gian vừa qua tai nạn giao thông nghiêm trọng do xe khách Thành Bưởi gây tai nạn nghiêm trọng khiến 5 người tử vong và 4 người khác bị thương nặng. Chế tài tài xế điều khiển xe khách gây tai nạn trên phải chịu là gì?  Theo Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:  1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. 2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. 3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này. Xe khách Thành Bưởi thực hiện điều khiển gây tai nạn cả về vật chất, sức khoẻ, tính mạng cho tài xế và hành khách trên xe khách 16 chỗ bắt buộc phải bồi thường theo thoả thuận đối với những gia đình, cá nhân bị thiệt hại  và theo mức bồi thường của các bộ luật khác quy định.    Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm gồm: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại; Thiệt hại khác do luật quy định. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm,Chi phí hợp lý cho việc mai táng;Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;Thiệt hại khác do luật quy định. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này Theo Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ: … 3. Phạm tội thuộc một trong các trường sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Làm chết 03 người trở lên; … 6. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Tài xế xe khách Thành Bưởi có thể đối diện mức phạt tù lên đến 15 năm và chịu các hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm, hành nghề lên đến 05 năm.  Trên đây là tư vấn của VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666 để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.  
Anh Quang - Hà Giang có gửi câu hỏi về VietLawyer như sau: "Tết đến, quê em hay có rủ nhau chơi ba cây ăn tiền khoảng mấy triệu, em không tham gia mà chỉ ngồi xem có bị quy vào hành vi đánh bạc hay không tố giác tội phạm hay không? Em cảm ơn ạ" Cảm ơn anh đã gửi câu hỏi về VietLawyer, chúng tôi xin giải quyết thắc mắc của anh như sau:  I: Đánh bạc là gì? Hành vi xem đánh bạc có được cho là vi phạm Luật Hình sự hay không?  Đánh bạc là hành vi tham gia trò chơi được tổ chức bất hợp pháp mang tính chất hơn thua, may rủi kèm theo việc được nhận lợi ích hoặc tài sản có giá trị quy đổi.  Điều 321 Bộ Luật hình sự có quy định:  Người nào đánh bạc trái phép dưới bất cứ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này quy định tại điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Cấu thành của tội phạm đánh bạc quy định trong Bộ luật Hình sự bao gồm:  Chủ thể của tội phạm đánh bạc là những cá nhân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ số tuổi theo quy định của Pháp luật Khách quan của tội phạm đánh bạc là các hình thức cá cược, hơn thua (xổ số, cờ bạc, cá độ bóng đá,...) với tích chất ăn tiền, tài sản, lợi ích với trị giá tài sản trên 5.000.000 đồng.  Mặt chủ quan của tội phạm đánh bạc là lỗi cố ý.  Mặt khách thể  của tội phạm đánh bạc là trật tự an toàn xã hội. Như vậy, khi bạn xem đánh bạc mà bạn không tham gia cá cược ăn thua thì không đáp ứng đủ yếu tố khách quan của tội phạm đánh bạc nên không thể khẳng định bạn vi phạm tội đánh bạc.  II: Hành vi xem đánh bạc có được coi là không tố giác tội phạm hay không?  Theo điều 19 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định:  1, Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.  Điều 390 Bộ luật hình sự 2015 quy định:  Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được chuẩn bị, hoặc đang được thực hiện mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.  Tại điều 389 Bộ luật Hình sự 2015 có liệt kê các tội phạm theo quy định nếu không tố giác sẽ bị được coi là hành vi không tố giác tội phạm nhưng không bao gồm Điều 321 quy định về tội đánh bạc.  Vì vậy xem đánh bạc cũng không được coi là hành vi không tố giác tội phạm.  Trên đây là tư vấn của VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666 để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.  
Có cần thay đổi người đại diện theo pháp luật khi bị bắt tạm giam - Vai trò của người đại diện theo pháp luật trong một doanh nghiệp rất quan trọng, họ chịu trách nhiệm đại diện cho doanh nghiệp trong việc thực hiện các thủ tục pháp lý và hành chính, cũng như trong việc giải quyết mọi vấn đề liên quan đến giấy tờ của công ty. Tuy nhiên, một vấn đề phức tạp xuất hiện khi người đại diện pháp luật của công ty đang chịu sự điều tra hoặc bị tạm giam. Điều này đặt ra câu hỏi liệu có cần thiết phải thay thế người đại diện trong những hoàn cảnh như vậy hay không. Hãy cùng VietLawyer tìm hiểu về vấn đề này qua bài viết dưới đây. 1. Người đại diện theo pháp luật là ai? Theo Khoản 1 Điều 12 Luật Doanh Nghiệp 2020, người đại diện theo pháp luật của một doanh nghiệp được hiểu là cá nhân có trách nhiệm đại diện và bảo vệ quyền lợi cũng như thực hiện nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ các giao dịch thương mại của doanh nghiệp đó. Người này có nhiệm vụ đại diện cho doanh nghiệp trong các vấn đề pháp lý và dân sự, hoạt động như nguyên đơn hoặc bị đơn trong các vụ kiện, và tham gia vào các quy trình giải quyết tranh chấp tại Trọng tài hoặc Tòa án. Hơn nữa, họ cũng thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo như pháp luật quy định. 2. Quyền của người đại diện khi bị tạm giam Theo quy định tại Điều 19 của Luật Thi hành tạm giữ tạm giam 2015, người đại diện của doanh nghiệp khi bị tạm giam phải tuân theo các quy định quản lý như sau: - Họ sẽ bị giám sát liên tục 24/7 tại cơ sở giam giữ, bao gồm việc canh gác, bảo vệ, quản lý, kiểm tra, và giám sát. - Người bị tạm giữ hoặc tạm giam phải ở trong các khu vực chỉ định, như buồng tạm giữ hoặc buồng tạm giam. Họ chỉ có thể rời khỏi những khu vực này khi có lệnh từ thủ trưởng cơ sở giam giữ để thực hiện các hoạt động được chỉ định theo Khoản 5 Điều 20 của cùng Luật này và theo nội quy cơ sở giam giữ. - Quyền tự do đi lại, giao dịch, tiếp xúc, thông tin, liên lạc, và tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người bị tạm giữ hoặc tạm giam sẽ bị hạn chế. Trong trường hợp cần thực hiện các giao dịch dân sự, họ phải làm việc thông qua người đại diện hợp pháp và cần có sự đồng ý từ cơ quan đang giải quyết vụ án. Như vậy, mặc dù có những hạn chế, người đại diện khi bị tạm giam vẫn có quyền được đại diện pháp lý và thực hiện các giao dịch cần thiết thông qua người đại diện hợp pháp, dưới sự giám sát của cơ quan đang thụ lý vụ án. 3. Có thay đổi người đại diện theo pháp luật khi người đại diện đang bị tạm giam? Theo khoản 5 Điều 12 Luật Doanh nghiệp 2020, trừ trường hợp ngoại lệ được nêu tại khoản 6 Điều 12, nếu doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật mà người này không có mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền, hoặc rơi vào các tình huống như: - Qua đời, mất tích, đang trong quá trình bị điều tra với trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang thực hiện hình phạt tù, hoặc đang trong cơ sở cai nghiện hoặc giáo dục bắt buộc. - Bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, gặp vấn đề trong việc nhận thức hoặc kiểm soát hành vi, hoặc bị Tòa án ra lệnh cấm giữ chức vụ hoặc cấm thực hiện công việc cụ thể. Trong những trường hợp trên, chủ sở hữu, Hội đồng thành viên, hoặc Hội đồng quản trị doanh nghiệp phải chủ động chỉ định một người khác đảm nhận vai trò là người đại diện theo pháp luật của công ty. Riêng đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên, khi người đại diện theo pháp luật của công ty từ trạng thái hoạt động bình thường chuyển sang các tình trạng kể trên, thành viên còn lại trong công ty sẽ tự động trở thành người đại diện theo pháp luật, cho đến khi Hội đồng thành viên ra quyết định chỉ định người mới. Như vậy, việc thay đổi người đại diện theo pháp luật là cần thiết và được thực hiện theo quy định của pháp luật trong trường hợp người đại diện hiện tại không thể tiếp tục đảm nhận vai trò của mình. 4. Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật Theo quy định tại Điều 13 của Luật Doanh nghiệp 2020, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm cụ thể như sau: - Thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, và tốt nhất có thể để bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. - Phải luôn trung thành với lợi ích của doanh nghiệp và không được lạm dụng địa vị, chức vụ của mình. Đặc biệt, họ không được sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh, hoặc tài sản khác của doanh nghiệp để đạt lợi ích cá nhân hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức hoặc cá nhân khác. - Phải thông báo kịp thời, đầy đủ, và chính xác cho doanh nghiệp về việc mình, cùng với những người có liên quan, đang làm chủ hoặc sở hữu cổ phần, phần vốn góp theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với bất kỳ thiệt hại nào gây ra cho doanh nghiệp do vi phạm các trách nhiệm quy định như trên. Kết luận  Như vậy, trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bị cơ quan điều tra tạm giam để tham gia công tác điều tra, Luật Doanh nghiệp 2020 quy định rằng chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị có quyền chọn người khác để thay thế và làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quyết định mới về người đại diện theo pháp luật của công ty. Nếu có thắc mắc khác liên quan đến thay đổi người đại diện theo pháp luật, bạn có thể truy cập vietlawyer.vn để cập nhật thông tin và hướng dẫn chi tiết.
Trộm cắp tài sản là tội phạm quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Trong trường hợp chưa hoàn thành xong hành vi trộm cắp thì có được miễn trách nhiệm hình sự hay không? I. Chưa hoàn thành tội phạm trộm cắp tài sản có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không? Trộm cắp là hành vi lợi dụng lúc người khác sơ hở, không cảnh giác thực hiện chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác. Theo Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định xác định số tiền được coi bị trộm cắp đủ điều kiện khởi tố hình sự là từ 2.000.000 đồng. Đối với tội phạm trộm cắp tài sản chỉ cần chủ thể thực hiện đủ tuổi theo quy định, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện các hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác với trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên là đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm không bắt buộc phải thực hiện thành công hành vi trộm. Mức phạt cao nhất đối với tội phạm này lên đến 20 năm tù và phạt tiền lên đến 50.000.000 đồng.  II. Chưa hoàn thành tội phạm trộm cắp tài sản bị chịu trách nhiệm hình sự như thế nào? Theo Điều 15 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về "Phạm tội chưa đạt" có định nghĩa:  Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện hành vi tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.  Tại điều 57 Bộ luật Hình sự 2015 có nêu:  Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. Vì vậy đối với tội phạm trộm cắp tài sản mà hành vi trộm cắp chưa hoàn thành thì mức phạt người thực hiện phải thực hiện ba phần tư số năm mức phạt tù tối đa là 15 năm với tội phạm "Trộm cắp tài sản".  Trên đây là tư vấn của VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666 để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
Pháp luật Hình sự Việt Nam quy định như thế nào vê tội "Đưa hối lộ"? Chế tài người đưa hối lộ sẽ nhận phải là gì? 1, Quy định của Pháp luật Việt Nam về tội đưa hối lộ Theo quy định tại Điều 364 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về tội "Đưa hối lộ": Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:   a) Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; b) Lợi ích phi vật chất. Việc đưa hối lộ sẽ không bị giới hạn bởi việc trực tiếp đưa hối lộ mới là hành vi đưa hối lộ mà việc thông qua trung gian thực hiện việc đưa hối cũng được coi là hành vi hối lộ. Đối tượng nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích là những người có chức vụ, quyền hạn làm những việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ với mức tiền từ 2.000.000 đồng trở lên sẽ bị coi là vi phạm tội phạm "đưa hối lộ" theo điều 364 Luật Hình sự 2015.  Đặc biệt, tài sản nhận hối lộ có thể không quy đổi ra giá trị vật chất mà có thể quy đổi ra lợi ích phi vật chất khác vd: Hối lộ tình dục 2. Chế tài người thực hiện hối lộ phải nhận:  Nếu người đưa hối lộ thực hiện thuộc các trường hợp sau thì mức phạt sẽ là từ 02 năm đến 07 năm tù.  Có tổ chức; Dùng thủ đoạn xảo quyệt; Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;  Phạm tội 02 lần trở lên; Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. Ngoài ra Pháp luật Hình sự sẽ căn cứ vào số tài sản thực hiện nhằm mục đích hối lộ để thực hiện đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi để áp dụng chế tài phù hợp: Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.  Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt từ tù 12 năm đến 20 năm. Trên đây là tư vấn của VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666 để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
Hiện nay, có nhiều người hành nghề “ gái gọi” tự chụp ảnh nóng của mình đưa lên các trang mạng xã hội. Nhiều người lợi dụng để phát tán những hình ảnh này trên mạng xã hội. Mặc dù hành nghề “ gái gọi” nhưng bị hại đang lo sợ, xấu hổ, thậm chí cảm thấy nhục nhã trước những ánh nhìn đầy miệt thị của những người xung quanh thì đối tượng tung clip dường như vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.Vậy người tự đăng ảnh nóng của mình lên mạng và bị người khác phát tán thì người đưa ảnh và người phát tán ảnh sẽ bị xử lý như thế nào?   Theo đó, hành vi bán dâm và đưa phát tán ảnh nóng của người khác lên mạng xã hội có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Thứ nhất, về hành vi bán dâm Căn cứ Điều 25 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP có quy định cụ thể về tội bán dâm như sau: “Điều 25. Hành vi bán dâm 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi bán dâm. 2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng trong trường hợp bán dâm cho 02 người trở lên cùng một lúc. 3. Hình thức xử phạt bổ sung: a) Tịch thu tang vật vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này; b) Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này. 4. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này.” Như vậy, trường hợp "hành nghề" "gái gọi" có hành vi chụp ảnh đưa lên các trang mạng xã hội do đó trường hợp của bạn có thể bị xử phạt vi phạm về hành vi bán dâm. Mức phát hành vi này có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng hoặc trong trường hợp bán dâm cho nhiều người cùng một lúc có thể phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Thứ hai, về hành vi đưa ảnh nóng lên mạng thì người phát tán ảnh nóng có thể sẽ bị truy cứu về hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồ trụy theo Điều 326 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Hành vi đó có họ được xem là hành vi sao chép, lưu hành những hình ảnh nóng với  nội dung khiêu dâm đồ trụy, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội truyền bá văn hóa phẩm đồ trụy theo Điều 326 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Cấu thành tội phạm. - Khách thể của tội phạm. Hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trực tiếp xâm phạm chế độ bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam, tác động tiêu cực đến đời sống tinh thẩn của nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên. - Mặt khách quan của tội phạm. Mặt khách quan của tội này thể hiện ở hành vi sao chép, lưu hành hình ảnh có tính chất đồi trụy hoặc hành vi khác truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. - Chủ thể của tội phạm. Chủ thể của tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. - Mặt chủ quan của tội phạm. Tội phạm này thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp - Hình phạt. Điều luật quy định 03 khung hình phạt chính và 1 hình phạt bổ sung: Khung 1: phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu hành vi phạm tội thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 326 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Khung 2: phạt tù từ 03 năm đến 10 năm nếu hành vi phạm tội thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 326 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Khung 3: phạt tù từ 07 năm đến 15 năm nếu hành vi phạm tội thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 326 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm quy định tại khoản 4 Điều 326 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Trên đây là tư vấn của VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666 để nhận được sự tư vấn.
Chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc ép buộc người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ được giao.   1. Các yếu tố cấu thành tội phạm - Mặt khách quan: Có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. Có thể là một trong các hành vi sau: +, Dùng vũ lực chống người thi hành công vụ là dùng sức mạnh vật chất tấn công trực tiếp người đang thi hành công vụ (đấm, đâm, chém,…). +,  Đe dọa dùng vũ lực là dùng lời nói, cử chỉ có tính răn đe, uy hiếp khiến người thi hành công vụ sợ hãi, phải chấm dứt việc thực thi công vụ…Sự đe dọa là thực tế có cơ sở để người bị đe dọa tin rằng lời đe dọa sẽ biến thành hiện thực. +,  Cưỡng ép người thi hành công vụ làm trái pháp luật là khống chế, ép buộc người thi hành công vụ phải làm những điều trái với chức năng, quyền hạn của họ hoặc không làm những việc thuộc chức năng quyền hành của họ. +, Các thủ đoạn khác chống người thi hành công vụ là hành vi bôi nhọ, vu khống, đe dọa sẽ cung cấp những tin tức bất lợi cho người thi hành công vụ…  Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội có một trong những hành vi nêu trên để ngăn cản người thi hành công vụ thực hiện công vụ của mình hoặc buộc người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật. Hành vi chống người thi hành công vụ nếu gây thương tích hoặc làm chết cán bộ thi hành công vụ thì người phạm tội còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tại Chương XVI Bộ luật hình sự (tội cố ý gây thương tích, tội giết người,…). -Mặt khách thể: Là xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ và thông qua đó xâm phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công. Đối tượng tác động của tội phạm này là người đang thi hành công vụ. Người thi hành công vụ là người được Nhà nước hoặc xã hội giao nhiệm vụ và có quyền hạn. Mang quyền lực nhà nước để đi thực hiện nhiệm vụ được giao. - Mặt chủ quan: Là lỗi cố ý trực tiếp, người thực hiện hành vi phạm tội biết mình đang cản trở người thi hành công vụ hoặc cưỡng ép người thi hành công vụ làm trái pháp luật. Nếu một người khi thực hiện hành vi mà không biết là đang cản trở người thi hành công vụ hoặc cưỡng ép người thi hành công vụ làm trái pháp luật, có cơ sở chính đáng thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng nếu có gây thương tích hoặc chết người. - Mặt chủ thể: Bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự theo pháp luật Việt Nam quy định. 2. Hình phạt Hình phạt đối với tội danh này được quy định tại Điều 330 Bộ luật Hình sự Việt Nam 2015(sửa đổi bổ sung năm 2017). Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Phạm tội theo một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 2 đến 7 năm tù. Thứ nhất là phạm tội có tổ chức, phạm tội 02 lần trở lên, xúi giục lôi kéo kích động người khác phạm tội… Ngoài ra nếu xét về tính chất chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 20 Nghị định 167/2013/NĐ-CP. Người phạm tội sẽ phải chịu mức phạt vi phạm từ 500.000 đồng đến 5.000.000 đồng tùy thuộc vào tính chất của hành vi. Ngoài ra có thể có hình thức xử phạt bổ sung như tịch thu số tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác đối với hành vi quy định tại Điểm c Khoản 3 Điều này." Trên đây là tư vấn của VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666 để nhận được sự tư vấn.
Xin chào Luật sư. Tôi là nữ, trước đây tôi đã từng bị Tòa tuyên án phạt cải tạo không giam giữ 24 tháng thời gian thử thách 48 tháng tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong vào ngày 02/09/2022. Tôi muốn hỏi Luật sư là hình phạt cải tạo không giam giữ có án tích không, nếu có thì sau bao lâu tôi được xoá án tích? Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Công ty Luật VietLawyer, chúng tôi xin trả lời câu hỏi của bạn như sau:  1. Cải tạo không giam giữ có án tích không? Căn cứ: Điều 32 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Cải tạo không giam giữ là một trong những hình phạt chính được quy định tại khoản 1 điều 32 Bộ luật hình sự, vì vậy hình phạt này sẽ có án tích. 2. Chấp hành xong hình phạt cải tạo không giam giữ thì sau bao lâu được xóa án tích? Căn cứ: Điều 70 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Điều 70. Đương nhiên được xóa án tích 1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này. 2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây: a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo; b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm; d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án. Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung. 3. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này. 4. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này. Án tích là một trong những vấn đề ảnh hưởng rất lớn đến các quyền của người bị kết án và tác động đến việc tái hòa nhập cộng đồng của người đó sau khi đã chấp hành xong hình phạt. Trong một số trường hợp, án tích cũng là cơ sở để định tội, xem xét yếu tố tái phạm, tái phạm nguy hiểm, là tình tiết định khung hình phạt hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp cụ thể của bạn, nếu bạn không phạm tội mới trong vòng một năm kể từ khi bạn chấp hành xong bản án thì bạn sẽ thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích căn cứ tại Điểm a Khoản 2 Điều 70 . Tức là, sau khi chấp hành xong 24 tháng cải tạo không giam giữ và 48 tháng thử thách (đồng thời bạn phải thực hiện xong các nghĩa vụ trong thời gian thử thách), trong vòng 1 năm sau đó nếu bạn không phạm tội mới bạn sẽ được xóa án tích. Sau khi đủ điều kiện xóa án tích bạn H có thể nộp đơn yêu cầu tới Chánh án tòa án xét xử sơ thẩm đề nghị cấp giấy chứng nhận được xóa án tích. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật VietLawyer, quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ với chúng tôi để được giải đáp kịp thời.
Câu chuyện hành chính, sách nhiễu dân của một số bộ phận cán bộ trong bộ máy Nhà nước thậm chí có các trường hợp lạm dụng chức vụ quyền lực Nhà nước và người dân phân phó để thực hiện các hành vi mang tính chất trục lợi cá nhân. Các hành vi được đánh giá là có ảnh hưởng xấu đến xã hội đã được cụ thể hóa bằng các quy định của pháp luật. Đặc biệt trong Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 cũng đã có cụ thể quy định về tội phạm này.   Pháp luật Hình sự có quy định cụ thể mức phạt sẽ là tù có thời hạn từ 01 đến 07 năm cho các hành vi lợi dụng hoặc vì động cơ cá nhân mà vượt quá quyền hạn của mình mà mức thiệt hại ở mức 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Căn cứ vào các hình thức tăng nặng như có thể xác định các mức phạt nặng hơn và hình phạt bổ sung: “ 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Có tổ chức; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng. 3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm. 4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.” Chủ thể của tội phạm “Lạm dụng chức quyền khi thi hành công vụ” được xem là chủ thể đặc biệt trong BLHS 2015 vì không phải bất cứ chủ thể nào cũng có thể thực hiện được hành vi phạm tội này. Phải là chủ thể được cấp quyền lực cho phép thực hiện công vụ và từ công vụ đấy mới phát sinh các hành vi được đánh giá là vi phạm pháp luật. Về mặt khách thể mà tội phạm, hành vi tác động lên một khoảng rất rộng bao gồm cả quyền lợi của người dân và cả thất thoát tài sản và ngân sách của Nhà nước. Hậu quả của hành vi có thể ảnh hưởng về sau vì khi những người thực hiện công vụ công việc sẽ là ứng dụng lên rất nhiều người mang tính chất cộng đồng. Tội  “Lạm dụng trong khi thi hành công vụ” và tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” có dấu hiệu phạm tội vô cùng giống nhau. Nhiều người không có các kiến thức sâu rộng về pháp lý sẽ rất hay nhầm lẫn các tội phạm này. Về mặt chủ thể và khách thể là hoàn toàn giống nhau, phân biệt hai tội này ở mặt khách quan của tội phạm. Đối với tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ” hành vi của chủ thể không làm hoặc thực hiện là hành vi cố tình làm trái các công vụ được giao mục đích để trực lợi bất chính. Ở đây có thể nhận định trên danh nghĩa của công vụ được giao nhưng thực hiện hành vi khác (có thể vi phạm pháp luật hoặc không) trên danh nghĩa của chức vụ quyền lực được giao hoặc sử dụng làm công cụ hỗ trợ hành vi mục đích trục lợi. Đối với tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ”, chủ thể vẫn thực hiện hoàn toàn các chức vụ được giao nhưng lại làm vượt quá quyền hạn của các chức trách được giao tuy không được phân công quyền lợi sẵn có. Để đánh giá mức độ lạm quyền ở mức độ như thế nào và lạm quyền mức độ ra sao cũng rất khó có thể đánh giá. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật VietLawyer, quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ với chúng tôi để được giải đáp kịp thời.
Lạm dụng tín nhiệm không chỉ là hành vi vi phạm đạo đức xã hội mà còn vi phạm các quy định pháp luật liên quan đến tài sản và lừa đảo. Vậy, hiện nay, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác được quy định như thế nào?   1. Xử phạt hành chính hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Điểm c, d khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định: Người có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể bị xử phạt hành chính như sau: Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: - Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời điểm trả lại tài sản do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; - Không trả lại tài sản cho người khác do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 2. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật Hình sự: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Theo đó, người phạm tội này sẽ phải chịu chế tài như sau: * Khung 1: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: - Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; - Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. * Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: - Có tổ chức; - Có tính chất chuyên nghiệp; - Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; - Dùng thủ đoạn xảo quyệt; - Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; - Tái phạm nguy hiểm. * Khung 3: Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. * Khung 4: Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Như vậy, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Theo đó, người phạm tội phải chịu mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.\ Trên đây là tư vấn của Công ty Luật VietLawyer, quý khách hàng cần tư vấn, hỗ trợ vui lòng liên hệ với chúng tôi để được giải quyết.
 
hotline 0927625666