DỊCH VỤ LUẬT SƯ HÌNH SỰ

Có 02 tiền án được đặc xá hay không? "Được biết vào những dịp lễ như 30/4 - 1/5, 2/9 đều được đặc xá nhưng chồng tôi có 02 tiền án vậy anh ấy có được đặc xác không?" - (Chị T.Huyền - Vĩnh Long) Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi và tin tưởng Công ty Luật VietLawyer. Trên quy định pháp luật hiện hành, chúng tôi trả lời câu hỏi của bạn như sau:  1. Điều kiện đặc xá theo quy định pháp luật Theo khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá 2018 có quy định về điều kiện được đề nghị đặc xá. Theo đó, tùy thuộc vào việc Chủ tịch nước xem xét, quyết định về đặc xá nhân sự kiện dịp lễ 30/4 - 1/5, 2/9 thì người đang chấp hành hình phạt tù có thể được đề nghị đặc xá vào dịp lễ 30/4 - 1/5, 2/9 khi có đủ các điểu kiện sau: "- Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự; - Đã chấp hành án phạt tù được một thời gian nhưng ít nhất là một phần ba thời gian đối với trường hợp bị phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; - Đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 14 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn, nếu tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; - Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, đã nộp án phí; - Đã thi hành xong nghĩa vụ đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm tham nhũng hoặc tội phạm khác do Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá: + Trả lại tài sản; + Bồi thường thiệt hại; + Nghĩa vụ dân sự khác; - Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự; - Không thuộc một trong các trường hợp không được đề nghị đặc xá." 2. Các trường hợp không được đề nghị đặc xá Theo Điều 12 Luật Đặc xá 2018, Người có đủ điều kiện được đặc xá nhưng không được đề nghị đặc xá khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: "1. Bị kết án phạt tù về tội phản bội Tổ quốc; tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; tội gián điệp; tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; tội bạo loạn; tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội phá rối an ninh; tội chống phá cơ sở giam giữ; tội khủng bố hoặc một trong các tội quy định tại Chương các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh của Bộ luật Hình sự; 2. Bản án, phần bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với người đó đang bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng tăng nặng trách nhiệm hình sự; 3. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác; 4. Trước đó đã được đặc xá; 5. Có từ 02 tiền án trở lên; 6. Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định." Như vậy, chồng bạn dù có đủ điều kiện được đặc xá nhưng không được đề nghị đặc xá vì có 02 tiền án.  Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Hỗn hợp lỗi - Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Trong Luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản. Có bốn hình thức lỗi chính bao gồm: Lỗi cố ý trực tiếp; Lỗi cố ý gián tiếp; Lỗi vô ý vì quá tự tin; Lỗi vô ý do cẩu thả. Ngoài ra có một trường hợp lỗi đặc biệt, đó là hỗn hợp lỗi. 1. Khái niệm hỗn hợp lỗi Trường hơp hỗn hợp lỗi là trường hợp trong cùng một cấu thành tội phạm có hai loại lỗi (cố ý và vô ý) đối với những tình tiết khách quan khác nhau. Lỗi là biểu hiện của mặt chủ quan, lỗi luôn là lỗi của tất cả các tình tiết khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm cơ bản. Không có những lỗi khác nhau đối với cùng các tình tiết khách quan được mô tả trong cùng trong một cấu thành tội phạm cơ bản. Không thể nào có trường hơp cố ý đối với hành vi mà vô ý đối với hậu quả. Ngược lại, cũng không thể có trường hợp vô ý đối với hành vi mà cố ý đối với hậu quả vì khi thực hiện hành vi với lỗi vô ý, người phạm tội không thể nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi thì làm sao có thể hình dung được khả năng gây ra nguy hiểm và thấy được tính nguy hiểm xảy ra cho xã hội. 2. Đặc điểm của hỗn hợp lỗi  Cấu thành tội phạm cơ bản chỉ có lỗi cố ý hoặc vô ý. Hỗn hợp lỗi chỉ xảy ra trong trường hợp có cấu thành tội phạm tăng nặng của các tội phạm cố ý với tình tiết định khung tăng nặng là hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ, khoản 4 Điều 104 về tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người. Hậu quả “chết người” là tình tiết định khung tăng nặng, hậu quả này do lỗi vô ý của người phạm tội, và hành vi gây thương tích (tình tiết khách quan quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản) được thực hiện với lỗi cố ý. Cần phân biệt “hỗn hợp lỗi” với “lỗi hỗn hợp”. Lỗi hỗn hợp là trường hợp có hành vi gây thiệt hại nhưng đó là kết quả của nhiều bên có lỗi, có thể có lỗi của người phạm tội, người bị hại hoặc của những người thứ ba. Chẳng hạn, tai nạn giao thông xảy ra, có thể do lỗi của người lái xe, người bị hại bất cẩn, hoặc có một người nào đó gây ra chướng ngại. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer về hỗn hợp lỗi. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Người Việt Nam có hành vi đánh bạc tại nước ngoài sẽ bị xử lý như thế nào? Theo quy định của pháp luật nước ta hiện nay, bất kì cá nhân nào có hành vi đánh bạc dưới bất kì hình thức nào thì tùy thuộc vào hành vi và mức độ vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Vậy trong trường hợp đánh bạc tại nước ngoài sẽ bị xử lý như thế nào? - VietLawyer sẽ giải đáp thắc mắc của bạn qua bài viết dưới đây. 1. Hành vi đánh bạc là gì? Hành vi đánh bạc được hiểu hành vi được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp. 2. Quy định của Bộ luật Hình sự về tội đánh bạc Tội đánh bạc được quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015. Ngày 20/06/2017 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, theo đó tội đánh bạc đã được sửa đổi như sau: 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên; c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. 3. Xử phạt tội đánh bạc khi phạm tội tại nước ngoài Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) 1. Công dân Việt Nam hoặc pháp nhân thương mại Việt Nam có hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Bộ luật này quy định là tội phạm, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật này. ... Như vậy, về nguyên tắc, công dân Việt Nam đánh bạc ở nước ngoài vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tội Đánh bạc. Tuy nhiên, việc xử lý tội phạm xảy ra tại nước ngoài cần có sự hỗ trợ của nước sở tại thông qua Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự nên sẽ phụ thuộc vào sự hợp tác của hai quốc gia dựa trên nguyên tắc có đi có lại theo quy định tại Điều 492 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) như sau: 1. Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 2. Trường hợp Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập điều ước quốc tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế. Do đó, tùy thuộc vào quy định của nước sở tại mà người hành vi đánh bạc có thể bị xử lý theo ba trường hợp: - Không bị xử lý và chấp hành hình phạt do quy định tại nước sở tại: Tùy thuộc vào pháp luật nước người Việt Nam có hành vi đánh bạc tại đó mà được coi là hợp pháp và không truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Luật Quản lý cờ bạc của Campuchia cấm người dân trong nước chơi cờ bạc cũng như tham gia chơi ở các casino. Tuy nhiên, pháp luật nước này có quy định mở cửa cho các du khách nước ngoài, trong đó có Việt Nam tham gia đánh bạc tại đây, nhằm tạo nguồn thu cho kinh tế, du lịch, tăng thu nhập từ thuế. Do vậy, nếu người Việt Nam đánh bạc tại Campuchia thì không bị xử lý theo pháp luật của nước này. - Dẫn độ về nước để xử lý theo pháp luật Việt Nam: Trường hợp người Việt Nam đánh bạc tại nước ngoài thì căn cứ vào Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và nước đó. Khi hai nước ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp, nước này sẽ dẫn độ công dân của nước kia đang ở trên lãnh thổ của nước mình để tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc để thi hành bản án, quyết định hình sự. Việc dẫn độ tội phạm giữa hai nước phải đảm bảo phù hợp với những điều khoản đã ghi trong Hiệp định tương trợ tư pháp. Đồng thời, phải đáp ứng điều kiện dẫn độ và không thuộc các trường hợp từ chối dẫn độ. - Trường hợp không có Hiệp định hỗ trợ tư pháp: Trong việc dẫn độ, hỗ trợ điều tra… việc xử lý tội phạm sẽ phụ thuộc vào sự hợp tác của các quốc gia trên nguyên tắc có đi có lại tùy vào từng trường hợp cụ thể. Nếu nước bạn không dẫn độ người phạm tội thì người này có thể bị xử lý theo pháp luật nước sở tại. Khi đó, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể xem xét để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc cho thi hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án nước ngoài đối với công dân Việt Nam bị từ chối dẫn độ. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến Hình sự và các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
    Sau vụ chủ shop quần áo khiến “yêu râu xanh” cầm quần bỏ chạy, nhiều độc giả thắc mắc, hành vi hiếp dâm bất thành sẽ bị xử lý thế nào? Công an Huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc) đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam Phan Văn Cương (SN 1992, trú tại Khu 8, thị trấn Kim Long, huyện Tam Dương, Vĩnh Phúc) để điều tra về hành vi “Hiếp dâm”.     Cương là nghi phạm gây ra vụ việc dùng dao đe dọa, cưỡng bức bất thành chị H (SN 1986) - chủ shop quần áo ở thị trấn Gia Khánh (Bình Xuyên).     Theo điều tra ban đầu, khoảng 22h30 ngày 5/5, sau khi uống bia ở Trại Cúp, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, Cương điều khiển xe máy đi từ thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên hướng về nhà ở thị trấn Kim Long.     Đến khoảng 23h35 cùng ngày, Cương qua một cửa hàng buôn bán quần áo ở thị trấn Gia Khánh thì thấy chị H đang thử đồ. Thấy vậy, Cương nảy sinh ý định hiếp dâm đối với chị H.     Lúc này, Cương đỗ xe máy ở phía trước cửa hàng quần áo, lấy con dao dài 32cm ở xe máy rồi chạy vào cửa hàng quần áo, đến vị trí nơi chị H. đang đứng, dùng dao đe dọa chị H. phải cho quan hệ tình dục.     Chị H. lo sợ nên phải giả vờ đồng ý, mặt khác tìm lý do trì hoãn. Lợi dụng lúc Cương không để ý và chưa thực hiện được hành vi của mình, chị H. giật được con dao đồng thời hô hoán người dân xung quanh đến giúp đỡ. Cương bỏ chạy ra ngoài thì bị người dân bắt giữ. Quá trình làm việc với công an, Cương đã khai nhận toàn bộ sự việc.     Hình ảnh từ clip ghi lại vụ việc cho thấy, trong khi bị khống chế, chủ shop quần áo tỏ ra "hợp tác" với đối tượng. Lợi dụng đối tượng mất cảnh giác, để dao trên bàn, chủ shop quần áo bất ngờ giật con dao và hô hoán mọi người. Lúc này, nghi phạm hiếp dâm vơ lấy chiếc quần đùi rồi bỏ chạy ra ngoài.     Từ vụ án trên, nhiều độc giả thắc mắc, hành vi hiếp dâm bất thành sẽ bị xử lý thế nào? Nghi phạm gây vụ cưỡng bức nữ chủ shop quần áo sẽ đối mặt với khung hình phạt nào nếu bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Hiếp dâm”?     Công ty Luật VietLawyer xin giải đáp về các thắc mắc trên, căn cứ xử lý tội phạm “Tội hiếp dâm” được quy định tại Điều 141, Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Đối với 02 người trở lên; e) Có tính cất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; i) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.” 4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó. 5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.     Theo đó, người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.     Khung hình phạt nhẹ nhất với đối tượng phạm tội hiếp dâm là 2-7 năm tù. Hình phạt tù sẽ tăng với người phạm tội tùy vào trường hợp phạm tội. Ví dụ, hành vi hiếp dâm có tổ chức, nhiều người hiếp một người, phạm tội 2 lần trở lên, đối với 2 người trở lên, tái phạm nguy hiểm hoặc gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%… sẽ bị phạt tù từ 7-15 năm. Khung hình phạt cao nhất với tội phạm hiếp dâm là tù chung thân.     Liên quan tới vụ án xảy ra tại shop quần áo, theo luật sư, với hình ảnh và thông tin điều tra ban đầu, việc cơ quan điều tra khởi tố, bắt tạm giam nghi phạm là có căn cứ. Hình ảnh từ clip ghi lại vụ việc cho thấy, đối tượng sử dụng dao khống chế, uy hiếp người phụ nữ và có hành động cởi quần với ý định giao cấu trái ý muốn của nạn nhân. May mắn, nữ nạn nhân xử lý khôn khéo khiến nghi phạm không thể thực hiện được hành vi đồi bại. Về thắc mắc hành vi hiếp dâm bất thành sẽ bị xử lý thế nào?      Căn cứ Điều 15, Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định rõ về phạm tội chưa đạt. Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.      Như vậy, hành vi hiếp dâm không thành là trường hợp phạm tội chưa đạt của tội hiếp dâm. Đối tượng thực hiện hành vi hiếp dâm không thành vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Tội hiếp dâm là tội phạm cấu thành hình thức nên đối tượng phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự nếu thực hiện một trong hành vi khách quan của tội phạm này như sử dụng vũ lực để đe vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân thì phải chịu trách nhiệm hình sự dù việc giao cấu, quan hệ tình dục chưa đạt. Việc thực hiện hành vi phạm tội không thành là nằm ngoài ý muốn của đối tượng.     Hình ảnh vụ án ở shop quần áo cho thấy, đối tượng chỉ bỏ chạy, không thực hiện hành vi phạm tội khi nữ nạn nhân giật được con dao đối tượng trước đó sử dụng để uy hiếp cần xử lý nghiêm đối tượng có hành vi hiếp dâm để răn đe, phòng ngừa. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer liên quan đến vụ việc chủ shop quần áo khiến “yêu râu xanh” bỏ chạy- hiếp dâm bất thành. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn, đại diện các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/ để được giải đáp các thắc mắc.
Chồng tôi vừa bị đi tù được 4 tháng, tôi muốn biết quy định về việc gặp và nhận quà của người ở tù? - Chị L.Lý (Hải Dương) Cảm ơn chị đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật VietLawyer. Trên quy định của pháp luật hiện hành chúng tôi trả lời chị như sau:  Căn cứ theo Điều 52 Luật Thi hành án hình sự 2019 chế độ găp, nhận quà của phạm nhân được quy định: - Phạm nhân được gặp thân nhân 01 lần trong 01 tháng, mỗi lần gặp không quá 01 giờ. Căn cứ kết quả xếp loại chấp hành án, yêu cầu giáo dục cải tạo, thành tích lao động, học tập của phạm nhân, Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện quyết định kéo dài thời gian gặp thân nhân nhưng không quá 03 giờ hoặc được gặp vợ, chồng ở phòng riêng không quá 24 giờ. Phạm nhân được khen thưởng hoặc lập công thì được gặp thân nhân thêm 01 lần trong 01 tháng. Phạm nhân vi phạm nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân thì 02 tháng được gặp thân nhân 01 lần, mỗi lần không quá 01 giờ. - Trường hợp đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác có đề nghị được gặp phạm nhân thì Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện xem xét, quyết định. - Khi gặp thân nhân, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác, phạm nhân được nhận thư, tiền, đồ vật, trừ đồ vật thuộc danh mục cấm. Đối với tiền, phạm nhân phải gửi trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện quản lý. Việc quản lý, sử dụng đồ vật, tiền của phạm nhân được thực hiện theo quy định tại các điểm a, b và c khoản 3 Điều 28 của Luật này. - Phạm nhân được nhận quà là tiền, đồ vật do thân nhân gửi qua đường bưu chính không quá 02 lần trong 01 tháng. Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm tiếp nhận tiền, đồ vật mà thân nhân của phạm nhân gửi cho phạm nhân và bóc, mở, kiểm tra để phát hiện và xử lý đồ vật thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật. - Thân nhân của phạm nhân đến gặp phạm nhân phải mang theo sổ thăm gặp hoặc đơn xin gặp có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi người đó cư trú hoặc của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải phổ biến cho thân nhân của phạm nhân về quy định thăm gặp phạm nhân; thân nhân của phạm nhân phải chấp hành các quy định này. Đối với phạm nhân là người nước ngoài, trường hợp thân nhân là người nước ngoài thì phải có đơn xin gặp gửi cơ quan quản lý thi hành án hình sự, đơn phải viết bằng tiếng Việt hoặc được dịch ra tiếng Việt và có xác nhận của cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của nước mà người đó mang quốc tịch hoặc cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam nơi người đó làm việc; trường hợp thân nhân là người Việt Nam thì đơn xin gặp phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đơn, cơ quan quản lý thi hành án hình sự có trách nhiệm trả lời người có đơn; trường hợp đặc biệt có thể kéo dài nhưng thời hạn trả lời không quá 30 ngày. - Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện bố trí nơi phạm nhân gặp thân nhân, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác. - Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết Điều này. Trên đây là những chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/  
Các trường hợp miễn chấp hành hình phạt - Miễn chấp hành hình phạt là không buộc phải chấp hành toàn bộ hoặc phần còn lại của hình phạt mà Tòa án đã quyết định áp dụng đối với người bị kết án.  Miễn chấp hành hình phạt là một trong các chế định thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam. Đây là trường hợp một người đã bị Tòa án quyết định hình phạt trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, trước khi bản án được đưa ra thi hành thì người bị kết án được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt được miễn chấp hành hình phạt còn lại trong trường hợp bản án đã được đưa ra thi hành do có những điều kiện nhất định Theo quy định tại điều 62 Bộ luật hình sự 2015, các trường hợp sau đây được miễn chấp hành hình phạt. Một là, người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá và đại xá. Đặc xá là biện pháp khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước hạn đối với người bị kết án đang chấp hành hình phạt từ nếu đáp ứng những điều kiện do pháp luật quy định. Đại xá là một biện pháp khoan hồng đặc biệt của Nhà nước, do Quốc hội quyết định có nội dung là miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn chấp hành hình phạt đối với tất cả những người đã thực hiện loại hành vi nào đó bị pháp luật hình sự coi là tội phạm vào thời điểm hành vi đó được thực hiện. Văn bản đại xá thường được ban hành khi có sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng của đất nước và có hiệu lực đối với những tội phạm xảy ra trước và khi văn bản đại xá đó được ban hành. Tội phạm đã được đại xá là căn cứ để không khởi tố vụ án, khởi tố bị can; nếu vụ án đang khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành hình phạt. Hai là, người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Sau khi bị kết án, người bị kết án đã lập công. Sau khi bị kết án, người bị kết án đã lập công là trường hợp sau khi bị kết án người chấp hành có có thành tích xuất sắc trong lap động, học tập, công tác, chiến đấu được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định khen thưởng hoặc xác nhận hoặc giúp cơ quan có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra và xử lý tội phạm; cứu được tính mạng của người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc đã cứu được tài sản (có giá trị từ 30.000.000đ trở lên) của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn; có những phát minh, sáng kiến có giá trị lớn hoặc có thành tích đặc biệt xuất sắc khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. - Sau khi bị kết án, người bị kết án mắc bệnh hiểm nghèo. Mắc bệnh hiểm nghèo là trường hợp người bị kết án đang bị mắc một trong các bệnh như: Ung thư giai đoạn cuổi, liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tin độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc một trong các bệnh khác được Hội đồng giám định y khoa, bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên kết luận là bệnh hiểm nghèo, nguy hiểm đến tính mạng. - Sau khi bị kết án, người bị kết án đã chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Đâu là trường hợp người bị kết án chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn (Ví dụ: Gia đình thuộc hộ nghèo, bố mẹ, vợ chồng đau yếu, không có khả năng lao động, người bị kết án là lao động chính trong gia đình...), người bị kết án chăm chỉ lao động, tích cực tham gia các hoạt động xã hội các phong trào thi đua của địa phương, tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quyết định của bản án. Ba là, người bị kết án phạt từ có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nếu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thi theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt. Lập công lớn là trường hợp người bị kết án đã có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều ta tội phạm; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản (có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên) của Nhà nước, tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng hoặc xác nhận. Bốn là, người bị kết án phạt tù đến ba năm, đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Năm là, người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết dịnh miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại. Sáu là, người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạp tốt, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Người bị phạt cấm cư trú hoặc quán chế cải tạo tốt được hiểu là người đó chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ của người bị kết án, thực hiện nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương, cơ qua, đơn vị nơi cư trú, làm việc. Người được miễn chấp hành hình phạt nêu trên vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ sửa chữa, bồi thường thiệt hại, nộp án phí...) do Tòa án tuyên trong bản án. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer về các trường hợp miễn chấp hành hình phạt. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự - Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là một nội dung rất quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người phạm tội. Việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thể hiện quan điểm của Nhà nước về cách thức xử lý người phạm tội, vừa đảm bảo trật tự, an toàn cho xã hội nhưng vừa phải đạt được mục đích bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền của người dưới 18 tuổi, kể cả khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Luật hình sự Việt Nam căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm một số nước, cũng như dựa vào kết quả công trình nghiên cứu khảo sát về tâm sinh lý con người và căn cứ vào chính sách hình sự qua các thời kỳ lịch sử của Nhà nước. ĐIều 12 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: "1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 142, 143, 144, 150, 151, 168,169,170,171,173,178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này" Như vậy, luật hình sự Việt Nam không quy định độ tuổi tối đa phải chịu trách nhiệm hình sự, mà chỉ quy định độ tuổi tối thiểu chịu trách nhiệm hình sự là tròn 14 tuổi. Tuy nhiên, có những quy định về điều kiện để áp dụng trách nhiệm hình sự, cụ thể: - Đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên "phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác". Căn cứ vào tình hình phát triển chung về thể chất và tâm sinh lý của người Việt Nam, người từ đủ 16 tuổi trở lên là người đã nhận thức được tính nguy hiểm của mọi hành vi mà mình thực hiện cũng như khả năng điều khiển được hành vi ấy, do đó, phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm mà minh gây ra. Tuy nhiên, để xác định tính phù hợp và linh hoạt trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở một số tội phạm cụ thể, pháp luật hình sự có quy định riêng ở một số tội phạm ấy. Ví dụ: khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: "Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi... thì bị phạt từ từ 01 năm đến 05 năm", như vậy, độ tuổi tối thiểu đối với tội danh này là trong 18 tuổi trở lên. - Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi "phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,150,151,168,169,170,171,173,178,248,249,250,251,252,265,266,286,287,289,290,299,303 và 304 của Bộ luật này." Với quy đinh này, điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bao gồm: (1) Tội phạm thực hiện phải là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, tức là mức cao nhất của khung hình phạt trên 07 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình; (2) Tội phạm thực hiện phải thuộc tội danh được quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 78, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này." Với quy định này, điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đén dưới 16 tuổi bao gồm: (1) Tội phạm thưc hiện phả là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biết nghiêm trọng, tức là mức cao nhất của khung hình phạt trên 07 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình; (2) Tội phạm thực hiện phải thuộc tội danh được quy định tại các điều 123, 134, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250,  251, 252, 265, 266, 286, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật Hình sự. Quy định này trong Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thu hẹp phạm vi đối tượng người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đã khắc phục hạn chế của các Bộ luật Hình sự trước đó. Bộ luật Hình sự năm 1985 và Bộ luật Hình sự 1999 đều xác định loại tội phạm và lỗi là dấu hiệu bắt buộc để truy cứu trách nhiệm hình sự mà không có sự phân loại các tội phạm cụ thể. Thực tế, người trong độ tuổi dễ bị lôi kéo, dụ dỗ để thực hiện tội phạm và họ không nhận thức được hoặc nhận thức không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mình thực hiện, ví dụ như các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm chiến tranh... Do đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã giới hạn một cách cụ thể, rõ ràng các loại tội phạm và tội phạm cụ thể mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định này phù hợp với nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự dựa vào yếu tố lỗi và truy cứu trách nhiệm hình sự phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế khách quan, đảm bảo quyền con người đặc biệt là quyền của người dưới 18 tuổi nói chung và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nói riêng. Pháp luật hình sự xác định nguyên tắc tính tuổi tròn đối với chủ thể của tội phạm là cá nhân. Thuật ngữ "từ đủ" trong điều luật đã xác định một nguyên tắc khi tính tuổi là phải trong ngày, tròn tháng, tròn năm. Ví dụ: Nguyễn Văn A, sinh ngày 20/10/2002 thì phải đến ngày 20/10/2016 mới tròn 14 tuổi và đến 20/10/2018 mới tròn 16 tuổi. Trong trường hợp không xác định được ngày sinh hoặc tháng sinh của người phạm tội thì sẽ chọn ngày cuối cùng của tháng, nếu xác định được tháng sinh hoặc ngày cuối cùng, tháng cuối cùng của quý, nếu xác định được quý sinh hoặc ngày cuối cùng, tháng cuối cùng của năm nếu xác định được năm sinh của người phạm tội. Ví dụ: Vào ngày 20/05/2019, thực hiện hành vi giết người tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự 2015. Qua xác minh thì cơ quan chức năng xác định được B sinh vào tháng 5/2005 mà không xác định được ngày sinh. Trong trường hợp này, sẽ lấy ngày cuối cùng của tháng 5/2005 làm ngày sinh cho B, tức B sinh ngày 31/05/2005. Như vậy, B chưa tròn 14 tuổi, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự với B. Quy định này xuất phát trên cơ sở nguyên tắc áp dụng truy cứu trách nhiệm hình sự có lợi và nhân đạo cho người phạm tội. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Ngoài việc liên lạc băng điện thoại với người thân thì phạm nhân còn có thể liên lạc bằng cách nào khác? - Anh X.Tú (Hà Tĩnh)  Cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật VietLawyer. Trên quy định pháp luật hiện hành chúng tôi trả lời như sau: Tại Điều 54 Luật Thi hành án hình sự 2019 quy định chế độ liên lạc của phạm nhân như sau: - Phạm nhân được gửi mỗi tháng 02 lá thư. Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải kiểm tra, kiểm duyệt thư mà phạm nhân gửi và nhận. - Phạm nhân được liên lạc điện thoại trong nước với thân nhân mỗi tháng 01 lần, mỗi lần không quá 10 phút, trừ trường hợp cấp bách. Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện xem xét, quyết định việc cho phạm nhân liên lạc bằng điện thoại và tổ chức kiểm soát việc liên lạc này. - Chi phí cho việc liên lạc của phạm nhân quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này do phạm nhân chi trả. Như vậy, ngoài gọi điện thoại thì phạm nhân còn được gửi thư thư. Trên đây là những chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Tội 'Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ" ? - Gần đây có nhiều vụ án "lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ" được các cơ quan bảo vệ pháp luật khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Trực trạng cho thấy, tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng. Vậy, nguyên nhân từ đâu, giải pháp gì để hạn chế tội phạm này? Bài viết sẽ đi sâu nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến tội phạm này với mong muốn giải đáp một phần cho các câu hỏi đặt ra 1. Tình hình tội phạm lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ thời gian gần đây Đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng trong những năm gần đây được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Trong đó, tội "lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ" là một trong những tội đang có chiều hướng tăng cả về quy mô cũng như tính chất. Thời gian gần đây đã có nhiều vụ án liên quan đến tội danh này được cơ quan nhà nước khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Một số các vụ án điển hình gồm: - Ngày 07/06/2022, ông Nguyễn Thành Long bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (C03) tống đạt quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ  - Ngày 10/06/2022, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự "Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ" xảy ra tại Bộ Giáo dục và Đào tạo và ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với bà Phạm Thị My và khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với ông Bùi Văn Sâm cùng về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. - Ngày 13/08/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố 04 bị can Nguyễn Mão, Trương Văn Chung, Nguyễn Công Bằng, Nguyễn Thị Thương về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ - Ngày 17/08/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC03) Công an tỉnh Sơn La thi hành quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam đối với 05 đối tượng về hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Chi cục Dự trữ Nhà nước Sơn La và Chi cục Dự trữ Nhà nước Mộc Châu - Ngày 24/03/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An đã tống đạt các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam 4 tháng đối với 3 bị can Nguyễn Trọng Bình, Phan Đình Hiền, Lưu Thị Thanh Tâm về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Trên đây là một số vụ án điển hình liên quan đến tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và đang bị các cơ quan nhà nước khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Các hành vi trên ngày càng có xu hướng gia tăng từ trung ương đến khu vực địa phương, rộng khắp các tỉnh, thành cả nước, không những làm thất thoát tài sản của Nhà nước mà còn làm xói mòn niềm tin của nhân dân. 2. Các yếu tố cấu thành tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Trước đây, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ được quy định tại Điều 281 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 và hiện được ghi nhận tại Điều 356 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung tội danh này theo hướng thay đổi các tình tiết “định tính” bằng cách quy định cụ thể thiệt hại về tài sản; đồng thời tách khung hình phạt để cụ thể hóa trách nhiệm hình sự. Điều 356 BLHS năm 2015 quy định người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì bị áp dụng hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi được quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 của điều luật. Tuy nhiên, để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự chủ thể có hành vi vi phạm thì phải thỏa mãn bốn yếu tố cấu thành tội phạm sau: Chủ thể của tội phạm Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 quy định “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý”. Nội dung quy định nêu trên cho thấy chủ thể của tội phạm gồm 2 loại: cá nhân và pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ chỉ có thể là cá nhân và chủ thể này cần phải thỏa mãn hai dấu hiệu: Năng lực chịu trách nhiệm hình sự và Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Trong đó, năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu là người đó phải có khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi của mình và khả năng điều khiển hành vi đó theo những yêu cầu chung của xã hội. Khoản 1 Điều 12 BLHS năm 2015 quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Trong khi đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015 mà trong đó không bao gồm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Chính vì vậy, chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Mặc dù luật quy định là người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy chưa có người nào từ 16 - 18 tuổi bị truy tố về tội danh này. Như vậy, có thể thấy là bên cạnh những đặc điểm chung giống như các chủ thể tội phạm khác thì chủ thể tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ còn có một số đặc điểm riêng biệt như: trước khi phạm tội, các chủ thể này luôn là những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan quản lý nhà nước; đa số họ đều được đào tạo bài bản, am hiểu pháp luật và đã đảm nhận nhiều vị trí công tác quan trọng trong các cơ quan nhà nước... Tuy là hai dấu hiệu độc lập liên quan đến chủ thể tội phạm nhưng năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự chính là điều kiện, là tiền đề của năng lực trách nhiệm hình sự. Khách thể của tội phạm Khi xem xét dưới góc độ khách thể trực tiếp của tội phạm, chúng ta thấy khách thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là quan hệ xã hội bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (trong hoạt động công vụ); lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để quản lý xã hội, Nhà nước đã ban hành nhiều quy định pháp luật để điều chỉnh lĩnh vực này. Chính vì vậy, hành vi vi phạm quy định pháp luật liên quan, xâm hại hoặc gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được Điều 356 BLHS năm 2015 bảo vệ thì tùy theo mức độ nặng nhẹ sẽ bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội phạm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái công vụ. Người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn để thực hiện công vụ được giao và họ đã không thực hiện, không thực hiện kịp thời, không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện không đúng với yêu cầu của công vụ. Tất cả các biểu hiện này đều được coi là làm trái công vụ nhưng vẫn trong phạm vi quyền hạn của chủ thể. Quy định về công vụ có thể tồn tại trong các quy định của pháp luật, nội quy, chế độ, thể lệ của ngành hoặc địa phương. Hành vi làm trái của chủ thể có chức vụ, quyền hạn phải gây ra những thiệt hại nhất định cho lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này là dấu hiệu pháp lý bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Đây là loại tội phạm mà hậu quả nguy hiểm của nó rất đa dạng. Nó có thể là những thiệt hại có tính vật chất như tính mạng, sức khỏe, tài sản nhưng cũng có thể là những thiệt hại phi vật chất như uy tín, danh dự, nhân phẩm con người... Trong trường hợp chủ thể thực hiện các hành vi nêu trên nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xem xét xử lý hành chính. Qua phân tích ở trên, có thể rút ra một kết luận là để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự chủ thể của tội này thì dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm phải thỏa mãn 2 điều kiện cơ bản: (1) Chủ thể đó phải thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái công vụ; (2) Việc thực hiện hành vi đó phải gây ra hậu quả nghiêm trọng mà luật hình sự đã quy định. Chính vì vậy, hậu quả xảy ra có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định hành vi phạm tội và là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Hơn thế nữa, mức độ của hậu quả xảy ra còn có ý nghĩa trong việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để từ đó lượng hình phù hợp. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm bao gồm các yếu tố như: lỗi; động cơ, mục đích. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng phải là hành vi và được thực hiện một cách có lỗi. Lỗi có hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý phạm tội được phân ra thành hai trường hợp là lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp. Vô ý phạm tội được phân ra thành hai trường hợp là lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý vì cẩu thả. Xuất phát từ tính chất đặc thù của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ nên mặt chủ quan của tội phạm này được thực hiện bởi lỗi cố ý. Động cơ phạm tội và mục đích phạm tội là hai dấu hiệu quan trọng thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Động cơ phạm tội theo tâm lý học pháp lý là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp cố ý phạm tội thì bao giờ hành vi của người phạm tội cũng được thúc đẩy bởi động cơ phạm tội, chỉ những trường hợp phạm tội do vô ý vì cẩu thả hay quá tự tin mới không có động cơ phạm tội thúc đẩy. Như vậy, có thể thấy là động cơ phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Động cơ vụ lợi là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội nhằm đạt được lợi ích vật chất cho mình hoặc cho người khác mà mình quan tâm. Động cơ cá nhân khác có thể là do nể nang, vì tình cảm cá nhân; vì lợi ích phi vật chất của mình như mong muốn củng cố, nâng cao địa vị, uy tín hoặc gia tăng quyền lực cá nhân. Động cơ phạm tội là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của tội này. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra và sẽ cố gắng đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Giữa mục đích phạm tội và hậu quả của tội phạm luôn có mối quan hệ với nhau, hậu quả của tội phạm là sự thể hiện, phản ánh mục đích phạm tội. Do đó, có thể thấy là mục đích của tội phạm lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là làm sao để đạt được nhiều lợi ích vật chất cho mình, cho người khác hoặc nhằm củng cố, nâng cao địa vị, uy tín, gia tăng quyền lực cá nhân. ======================================== Trên đây là chia sẻ của chúng tôi về tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong thi hành công vụ. Nếu Quý khách hàng có thắc mắc cần được giải đáp hoặc cần hỗ trợ các thủ tục pháp lý, hãy liên hệ ngay với Công ty Luật VietLawyer. Trân trọng./.
    Thế nào là phòng vệ chính đáng? Khi nào bị coi là vượt quá phòng vệ chính đáng? Trong nhiều trường hợp, người bị hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà vô tình gây ra thương tích hoặc làm chết người dẫn đến phải chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật. Vậy thế nào là phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng? - VietLawyer sẽ giải đáp thắc mắc của bạn qua bài viết dưới đây. 1. Phòng vệ chính đáng là gì?     Căn cứ theo Khoản 1 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về phòng vệ chính đáng: 1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.     Như vậy, để được coi là phòng vệ chính đáng thì phải đánh giá hành vi chống trả có cần thiết hay không phải xem xét một cách toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án, trong đó đặc biệt là tâm lý, thái độ của người phòng vệ khi xảy ra sự việc, họ không có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn chính xác phương pháp, phương tiện thích hợp để chống trả, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ. 2. Thế nào là vượt qua giới hạn phòng vệ chính đáng?     Căn cứ theo Khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về vượt quá phòng vệ chính đáng: 2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.     Như vậy, chỉ coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng khi sự chống trả rõ ràng dùng những phương tiện và phương pháp gây ra thiệt hại quá đáng cho người xâm hại mà tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại cũng như hoàn cảnh cụ thể chưa đòi hỏi phải dùng các phương tiện và phương pháp đó . Đồng thời, người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự tùy theo mức độ hành vi theo quy định của Bộ luật Hình sự.     Tuy nhiên, Căn cứ theo Điểm c Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung 2017) cũng quy định người phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng sẽ được xem xét đó là tình tiết giảm nhẹ khi truy cứu trách nhiệm hình sự: 1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: ... c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; ... 3. Mức xử phạt khi phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 3.1 Trường hợp gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng     Căn cứ theo Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội được quy định cụ thể như sau: 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. 3. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. 3.2 Trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng     Căn cứ theo Điều 126 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội như sau: 1. Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. 2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.     Như vậy, để được coi là phòng vệ chính đáng , người phòng vệ phải đang trong tình thế cần thiết. Cần thiết là sự thể hiện tính không thể không chống trả, không thể bỏ qua trước một hành vi xâm phạm đến các lợi của xã hội. Khi đã xác định hành vi chống trả là cần thiết thì thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm phạm dù có lớn hơn thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra cho người phòng vệ vẫn được coi là phòng vệ chính đáng.     Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer về vấn đề thế nào là phòng vệ chính đáng, người vượt quá phòng vệ chính đáng sẽ bị xử lý như thế nào. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
Phúc cung là gì ? -  Phúc cung là một hoạt động nghiệp vụ nhưng chưa được quy định cụ thể trong quy định của pháp luật. Phúc cung được xác định và thực hiện với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát để điều tra cụ thể để điều tra, giải quyết vụ án khi thấy có căn cứ nghi ngờ tính khách quan của vụ án, tính chính xác của các tài liệu, chứng cứ của vụ án. I/ Bản chất của phúc cung  Phúc cung trong giai đoạn truy tố là hoạt động kiểm chứng lại tính đúng đắn những lời khai của bị can trong vụ án hình sự, khi có sự nghị ngờ về tính khách quan, chính xác của những lời khai trước đó. Nói cách khác, đó là hoạt động điều tra, xét hỏi nhằm kiểm tra, xác minh lại những lời khai của bị can còn nghi vấn do Kiểm sát viên thực hiện theo trình tự, thủ tục của BLTTHS quy định.  Căn cứ pháp lý để Kiểm sát viên thực hiện hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố được quy định tại Điều 16, 17 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Điều 236, 237 BLTTHS năm 2015. II/ Căn cứ để thực hiện việc phúc cung Đầu tiên, điều kiện tiên quyết để hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố được áp dụng là khi Kiểm sát viên phát hiện sự mâu thuẫn, xung đột giữa các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án hoặc cần củng cố, bổ sung các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra (gọi tắt là Cơ quan điều tra) đã thu thập nói chung, và lời khai trước đó của bị can nói riêng. Điều này dẫn đến sự nghi ngờ về tính chính xác, khách quan của các tài liệu, chứng cứ đó. Vì vậy, Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, đánh giá đúng và đầy đủ các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập để phát hiện. Thứ hai, trong các vụ án hình sự, đặc biệt là những vụ án có sự tham gia của Luật sư bào chữa và thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội, khi người phạm tội là đối tượng có thể nguy hiểm, có chức vụ, quyền hạn hoặc địa vị xã hội, thường xảy ra sự bất nhất trong lời khai, lời cung để quanh co, chối tội hoặc đẩy trách nhiệm. Khi nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên cần phân tích, đánh giá đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ và so sánh chúng với các tài liệu, chứng cứ khác để buộc tội. Hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố cần được thực hiện theo kế hoạch, phương pháp cụ thể cho từng loại vụ án và từng loại bị can. Điều này làm tiền đề để xây dựng cáo trạng có chất lượng, hạn chế hoặc có thể dự đoán trước được việc bị can có thể phản cung tại phiên tòa. Thứ ba, Kiểm sát viên phải nhìn nhận hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố là hoạt động cần thiết để tổng quát lại nội dung, tình tiết vụ án, xác minh và kiểm chứng lại chứng cứ đã thu thập. Trong một số trường hợp, hoạt động phúc cung bị can tốt trong giai đoạn truy tố có thể giúp phát hiện nhiều tình tiết mới, lời khai mới và có thể dẫn đến việc khám phá bị can mới, tội mới mà trước đó chưa hoặc không thể khai với Cơ quan điều tra vì một lý do khách quan hay chủ quan nào đó của bị can. Thứ tư, qua hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố, Kiểm sát viên được hỗ trợ để phát hiện xem trong quá trình điều tra vụ án, Cơ quan điều tra có áp dụng các biện pháp bức cung, nhục hình, mớm cung, dụ cung đối với bị can hay không. Đồng thời, giúp phát hiện các vi phạm trong quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ hoặc những tài liệu, chứng cứ cần được củng cố, bổ sung kịp thời. Kiểm sát viên cũng có biện pháp tác động và phối hợp với Cơ quan điều tra để rút kinh nghiệm, khắc phục vi phạm và thực hiện tốt nhiệm vụ và quyền hạn trong các vụ án hình sự tiếp theo. Thứ năm, hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố tốt sẽ hỗ trợ và tạo niềm tin cho Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án. Điều này giúp Kiểm sát viên nắm chắc nội dung và tình tiết vụ án để có thể tham gia tranh luận và đối đáp với người bào chữa một cách chất lượng và thuyết phục. Đồng thời, hoạt động này tạo được hình ảnh, bản lĩnh, tự tin và uy nghiêm của cơ quan thực hiện quyền công tố trước Hội đồng xét xử, người bào chữa và những người tham gia, tham dự khác tại phiên tòa, đặc biệt là các phiên tòa xét xử diễn ra tại ngoại. Thứ sáu, khi Kiểm sát viên đặc biệt quan trọng hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố, nó sẽ trở thành một hoạt động nghiệp vụ thường xuyên và quan trọng để điều tra, kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi giải quyết vụ án. Điều này góp phần thực hiện chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” của Viện kiểm sát. Đồng thời, hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố cũng góp phần hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi Kiểm sát viên tham gia xét xử tại phiên tòa. Thứ bảy, hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố giúp Kiểm sát viên nhận thức vai trò và trách nhiệm của mình đối với từng vụ án khi được phân công thụ lý giải quyết. Đặc biệt, trong những vụ án phức tạp và dư luận quan tâm, giai đoạn truy tố là giai đoạn cuối cùng mà Kiểm sát viên có thể thực hiện các hoạt động kiểm sát điều tra, củng cố, bổ sung hoặc sửa chữa các tài liệu, chứng cứ cần thiết để buộc tội và giải quyết các vấn đề về vật chứng trước khi chuyển hồ sơ sang Tòa án để xét xử. Cuối cùng, Kiểm sát viên phải nhận thức rằng hoạt động phúc cung bị can trong giai đoạn truy tố chính là hoạt động xác minh, củng cố và bổ sung chứng cứ khi buộc tội, đóng vai trò quan trọng trong một số trường hợp quyết định. Khi có mâu thuẫn giữa lần khai trước và phúc cung, Kiểm sát viên có nhiệm vụ làm rõ việc khai trước và lời khai khi phúc cung, xác định xem chúng có phản ánh sự thật và dựa vào đó để quyết định việc truy tố nếu có tội hoặc đình chỉ điều tra nếu không có đủ chứng cứ buộc tội. Khách hàng là cá nhân, tổ chức có thắc mắc về thủ tục tố tụng hình sự, vui lòng liên hệ Công ty Luật VietLawyer để được tư vấn, giải đáp các thắc mắc của khách hàng
Có các hình thức kỷ luật nào đối với phạm nhân? - Anh H.Hoàng (Bình Phước) Cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật VietLawyer. Trên quy định pháp luật hiện hành, chúng tôi trả lời anh như sau: "1.Phạm nhân vi phạm nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân hoặc có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị kỷ luật bằng một trong các hình thức sau đây: a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Giam tại buồng kỷ luật đến 10 ngày. 2. Trong thời gian bị giam tại buồng kỷ luật, phạm nhân không được gặp thân nhân và có thể bị cùm chân. Không áp dụng cùm chân đối với phạm nhân nữ, phạm nhân là người dưới 18 tuổi, phạm nhân là người già yếu. 3. Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện quyết định kỷ luật phạm nhân bằng văn bản và lưu hồ sơ phạm nhân. 4. Trường hợp hành vi vi phạm của phạm nhân có dấu hiệu của tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Giám thị trại giam thì Giám thị trại giam ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. Trường hợp không thuộc thẩm quyền điều tra của mình thì phải kiến nghị cơ quan điều tra có thẩm quyền khởi tố theo quy định của pháp luật. Trường hợp hành vi vi phạm của phạm nhân đang giam giữ tại trại tạm giam, nhà tạm giữ Công an cấp huyện có dấu hiệu của tội phạm thì Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện kiến nghị cơ quan điều tra có thẩm quyền khởi tố theo quy định của pháp luật." Như vậy, phạm nhân vi phạm nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân hoặc có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị kỷ luật bằng một trong các hình thức sau đây: - Khiển trách; - Cảnh cáo; - Giam tại buồng kỷ luật đến 10 ngày. Trên đây là những chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
 
hotline 0927625666