TRẢ LỜI: LUẬT DÂN SỰ

Vợ chồng tôi muốn nhận con nuôi nhưng đứa trẻ đó kém vợ tôi 18 tuổi. Tôi có được nhận nuôi cháu không? - Anh V.Tú (Nghệ An)  Cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật VietLawyer. Trên quy định pháp luật hiện hành, chúng tôi trả lời câu hỏi của anh như sau:  Điều 14. Điều kiện đối với người nhận con nuôi 1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; d) Có tư cách đạo đức tốt. 2. Những người sau đây không được nhận con nuôi: a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; c) Đang chấp hành hình phạt tù; d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. 3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này". Như vậy, điều kiện để nhận con nuôi vợ chồng bạn phải hơn con nuôi 20 tuổi. Trong trường hợp vợ bạn chỉ hơn người được nhận làm con nuôi 18 tuổi thì không đủ điều kiện để nhận họ làm con nuôi. Trên đây là những chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Khởi kiện khi không xác định được nơi cư trú của bị đơn được giải quyết như thế nào? Cùng Công ty Luật VietLawyer tìm hiểu về vấn đề sau bài viết dưới đây nhé! 1. Không xác định được nơi cư trú của bị đơn – Tòa án có thụ lý không? Theo quy định của Luật cư trú 2006 sửa đổi, bổ sung 2013 quy định về nơi cư trú của công dân như sau: Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.  Điều 40, BLTTDS 2015 quy định về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu như sau: 1. Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong các trường hợp sau đây: 2. Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết;… Nếu theo quy định này thì trường hợp không biết địa chỉ hiện thời của bị đơn nhưng nếu biết nơi cư trú cuối cùng của họ thì Tòa án vẫn thụ lý. 2. Không xác định được nơi cư trú của bị đơn Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án là đúng hay sai? Căn cứ điểm e, khoản 1, điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:  Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung. Như vậy, theo quy định trên thì kể từ ngày Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực thì trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì tòa án sẽ không được đình chỉ giải quyết vụ án để trả hồ sơ vụ kiện như trước đây mà phải tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng chung . Hơn nữa, trong trường hợp tòa không thể xác định được nơi cư trú của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì tòa án không bắt buộc phải xác minh được địa chỉ của họ để tống đạt các văn bản tố tụng như trước đây mà tòa có thể vận dụng quy định mới thông qua thủ tục niêm yết để xét xử vắng mặt. Trong trường hợp tòa có căn cứ xác định việc niêm yết không thể bảo đảm cho người được cấp, được tống đạt hoặc được thông báo có thể nhận được thông tin về văn bản cần được cấp, tống đạt hoặc thông báo thì tòa án có thể thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng khi có yêu cầu của các đương sự khác trong vụ án. Trong trường hợp này, lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng do đương sự có yêu cầu thông báo chịu. Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng phải được đăng trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án, trên một trong các báo hàng ngày của Trung ương trong ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của Trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp. Cụ thể thủ tục niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho đương sự được thực hiện theo quy định tại điều 179 BLTTDS 2015 như sau: Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng được thực hiện trong trường hợp không thể cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp văn bản tố tụng cho các đương sự. Thời hạn niêm yết công khai văn bản tố tụng là 15 ngày, kể từ ngày niêm yết. Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng do Tòa án trực tiếp thực hiện hoặc ủy quyền cho người có chức năng tống đạt hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đương sự cư trú, nơi cơ quan, tổ chức có trụ sở thực hiện theo thủ tục sau đây: - Niêm yết bản chính tại trụ sở Tòa án, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của cá nhân, nơi có trụ sở hoặc trụ sở cuối cùng của cơ quan, tổ chức được cấp, tống đạt, thông báo; - Niêm yết bản sao tại nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của cá nhân, nơi có trụ sở hoặc trụ sở cuối cùng của cơ quan, tổ chức được cấp, tống đạt, thông báo; - Lập biên bản về việc thực hiện thủ tục niêm yết công khai, trong đó ghi rõ ngày, tháng, năm niêm yết. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về việc khởi kiện khi không xác định được nơi cư trú của bị đơn thì được giải quyết như thế nào. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Khi nhận con nuôi có cần sự đồng ý của người được nhận nuôi không? Tôi muốn nhận con nuôi thì có cần sự đồng ý của cháu? - Chị T.Bình (An Giang) Cảm ơn chị đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật VietLawyer. Trên quy định pháp luật hiện hành, chúng tôi giải đáp câu hỏi của chị như sau: Căn cứ theo quy định tại Điều 21 Luật Nuôi con nuôi 2010 (được hướng dẫn bởi Điều 9 Nghị định 19/2011/NĐ-CP) quy định như sau: 1. Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó. 2. Người đồng ý cho làm con nuôi quy định tại khoản 1 điều này phải được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con sau khi người đó được nhận làm con nuôi. 3. Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. 4. Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày. Như vậy, đối với trẻ từ 09 tuổi trở lên thì cần sự đồng ý của trẻ em được nhận làm con nuôi. Ngoài ra việc nhận nuôi con nuôi còn phải có sự đồng ý của cha mẹ đẻ, trường hợp cha đẻ hoặc mẹ đẻ không còn hay thuộc các trường hợp nêu trên thì cần có sự đồng ý của người còn lại. Nếu cả cha đẻ, mẹ đẻ đều không còn thì phải có sự đồng ý của người giám hộ. Trên đây là những chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Di chúc có bắt buộc phải công chứng không? - Di chúc là văn bản hoặc lời nói thể hiện ý chí, nguyện vọng của một người trong việc định đoạt tài sản, chuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho người khác sau khi chết. Vậy di chúc có bắt buộc phải công chứng không? Công ty Luật VietLawyer xin tư vấn như sau: 1. Di chúc có bắt buộc phải công chứng không? Căn cứ theo Điều 627 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hình thức của di chúc, theo đó di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Đồng thời, tại Điều 628 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về di chúc bằng văn bản gồm: di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có công chứng; di chúc bằng văn bản có chứng thực. Như vậy, pháp luật không quy định di chúc bắt buộc phải được công chứng mà có thể được lập dưới nhiều hình thức khác nhau theo như quy định tại Điều 628 Bộ luật Dân sự 2015. 2. Di chúc bằng văn bản nhưng không có công chứng, chứng thực được coi là hợp pháp khi nào? Căn cứ theo Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về di chúc hợp pháp:  " Điều 630. Di chúc hợp pháp 1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép; b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật. 2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. 3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. 4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này. 5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng." Theo đó, đối với di chúc được lập bằng văn bản mà không có công chứng, chứng thực thì chỉ được coi là hợp pháp nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau: - Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; - Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật. 3. Nếu di chúc đã được công chứng thì có được sửa đổi, bổ sung nội dung di chúc không? Tại Điều 56 Luật Công chứng 2014 quy định về việc công chứng di chúc như sau: "Điều 56. Công chứng di chúc 1. Người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc, không ủy quyền cho người khác yêu cầu công chứng di chúc. 2. Trường hợp công chứng viên nghi ngờ người lập di chúc bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình hoặc có căn cứ cho rằng việc lập di chúc có dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép thì công chứng viên đề nghị người lập di chúc làm rõ, trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng di chúc đó. Trường hợp tính mạng người lập di chúc bị đe dọa thì người yêu cầu công chứng không phải xuất trình đầy đủ giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này nhưng phải ghi rõ trong văn bản công chứng. 3. Di chúc đã được công chứng nhưng sau đó người lập di chúc muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc thì có thể yêu cầu bất kỳ công chứng viên nào công chứng việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ đó. Trường hợp di chúc trước đó đang được lưu giữ tại một tổ chức hành nghề công chứng thì người lập di chúc phải thông báo cho tổ chức hành nghề công chứng đang lưu giữ di chúc biết việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đó." Như vậy, theo quy định nêu trên, di chúc đã được công chứng vẫn có thể được sửa đổi, bổ sung. Khi đó mẹ bạn có thể yêu cầu bất kỳ công chứng viên nào công chứng việc sửa đổi, bổ sung đó. Trường hợp di chúc trước đó của mẹ bạn đang được lưu giữ tại một tổ chức hành nghề công chứng thì mẹ bạn phải thông báo cho tổ chức hành nghề công chứng đang lưu giữ di chúc biết việc sửa đổi, bổ sung di chúc đó. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật VietLawyer, quý khách hàng có thắc mắc cần tư vấn hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp kịp thời.
Khi đi công chứng di chúc có bắt buộc người lập di chúc phải mang theo giấy khám sức khỏe không? - Công chứng di chúc là việc tổ chức xác nhận tính hợp pháp của di chúc do di sản để lại, công chứng viên xác nhận hình thức của di chúc là đúng và bản thân người lập di chúc có đủ năng lực hành vi dân sự vào thời điểm đó. Vậy khi đi công chứng di chúc có bắt buộc người lập di chúc phải mang theo giấy khám sức khỏe không? Công ty Luật VietLawyer xin tư vấn như sau: Căn cứ Điều 40 Luật Công chứng 2014 quy định về việc công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn sẵn: "Điều 40. Công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn: 1. Hồ sơ yêu cầu công chứng được lập thành một bộ, gồm các giấy tờ sau đây: a) Phiếu yêu cầu công chứng, trong đó có thông tin về họ tên, địa chỉ người yêu cầu công chứng, nội dung cần công chứng, danh mục giấy tờ gửi kèm theo; tên tổ chức hành nghề công chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, thời điểm tiếp nhận hồ sơ; b) Dự thảo hợp đồng, giao dịch; c) Bản sao giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng; d) Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó; đ) Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có. 2. Bản sao quy định tại khoản 1 Điều này là bản chụp, bản in hoặc bản đánh máy có nội dung đầy đủ, chính xác như bản chính và không phải chứng thực. 3. Công chứng viên kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng. Trường hợp hồ sơ yêu cầu công chứng đầy đủ, phù hợp với quy định của pháp luật thì thụ lý và ghi vào sổ công chứng. 4. Công chứng viên hướng dẫn người yêu cầu công chứng tuân thủ đúng các quy định về thủ tục công chứng và các quy định pháp luật có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, giao dịch; giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc tham gia hợp đồng, giao dịch. 5. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng trong hồ sơ yêu cầu công chứng có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép, có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hoặc đối tượng của hợp đồng, giao dịch chưa được mô tả cụ thể thì công chứng viên đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng. 6. Công chứng viên kiểm tra dự thảo hợp đồng, giao dịch; nếu trong dự thảo hợp đồng, giao dịch có điều khoản vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng, giao dịch không phù hợp với quy định của pháp luật thì công chứng viên phải chỉ rõ cho người yêu cầu công chứng để sửa chữa. Trường hợp người yêu cầu công chứng không sửa chữa thì công chứng viên có quyền từ chối công chứng. 7. Người yêu cầu công chứng tự đọc lại dự thảo hợp đồng, giao dịch hoặc công chứng viên đọc cho người yêu cầu công chứng nghe theo đề nghị của người yêu cầu công chứng. 8. Người yêu cầu công chứng đồng ý toàn bộ nội dung trong dự thảo hợp đồng, giao dịch thì ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch. Công chứng viên yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình bản chính của các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này để đối chiếu trước khi ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch." Theo quy định trên thì hồ sơ yêu cầu công chứng không bắt buộc phải có giấy khám sức khỏe. Căn cứ khoản 2 Điều 56 Luật Công chứng 2014 quy định về việc công chứng di chúc như sau: "Điều 56. Công chứng di chúc ... 2. Trường hợp công chứng viên nghi ngờ người lập di chúc bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình hoặc có căn cứ cho rằng việc lập di chúc có dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép thì công chứng viên đề nghị người lập di chúc làm rõ, trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng di chúc đó. Trường hợp tính mạng người lập di chúc bị đe dọa thì người yêu cầu công chứng không phải xuất trình đầy đủ giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này nhưng phải ghi rõ trong văn bản công chứng. ..." Theo đó, trường hợp công chứng viên nghi ngờ người lập di chúc bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì công chứng viên đề nghị người lập di chúc làm rõ. Như vậy, việc công chứng di chúc không bắt buộc người yêu cầu công chứng phải mang theo giấy khám sức khoẻ. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật VietLawyer, quý khách hàng có nhu cầu tư vấn vui lòng liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn, hỗ trợ giải quyết nhanh nhất.
Thế nào là người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự? Sau đây, VIETLAWYER sẽ giúp quý đọc giả tìm hiểu. 1. Khái niệm người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự Trước tiên, về khái niệm đại diện, “Đại diện” là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Điều luật trên quy định cho phép trong những trường hợp cá nhân, pháp nhân không có hoặc không đủ điều kiện để xác lập và thực hiện giao dịch dân sự thì có thể thông qua cá nhân, pháp nhân khác xác lập và thực hiện giao dịch đó. Vì thế: Đại diện là quan hệ giữa một bên là người đại diện với bên kia là người được đại diện, theo đó, người đại diện nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Về khái niệm đương sự, “Đương sự trong vụ việc dân sự” là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự. Về khái niệm người đại diện của đương sự, “Người đại diện của đương sự” là người tham gia tố tụng thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự trước toà án. Khoản 1 Điều 85 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) quy định về người đại diện như sau: “Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của bộ luật dân sự”. 2. Đặc điểm của người đại diện Sau khi đã nghiên cứu và phân tích, có thể kết luận đặc điểm của người đại diện như sau: Thứ nhất, Người đại diện của đương sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân nhưng thực tế thường là cá nhân có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Vai trò là người thay mặt cho đương sự tham gia các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự (TTDS) sẽ trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Bởi vậy, người đại diện thường là cá nhân có đủ năng lực hành vi TTDS. Pháp luật TTDS hiện hành có quy định các trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác cũng được xem là người đại diện cho đương sự, ví dụ: cơ quan dân số, gia đình, trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,… nhưng vẫn phải có người đại diện cho tổ chức là cá nhân tham gia TTDS. Để là người đại diện, cá nhân phải có đủ năng lực, nhận thức để tự mình xác lập, thực hiện các quyền cũng như nghĩa vụ liên quan trong TTDS. Cụ thể, cá nhân này phải đáp ứng các điều kiện về độ tuổi, khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình mà pháp luật quy định thì mới có thể trở thành người đại diện cho đương sự trong TTDS. Ngoài ra còn trường hợp cá biệt, tại khoản 3 Điều 138 BLDS quy định người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền. Thứ hai, Người đại diện của đương sự tham gia tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, vì lợi ích của đương sự. Vốn dĩ người đại diện của đương sự không phải chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung tranh chấp mà họ tham gia tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, vì lợi ích của đương sự, thực hiện thay đương sự các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Do đó, người có quyền, lợi ích, nghĩa vụ đối lập với đương sự sẽ không được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện của đương sự. Cũng vì đó, nếu người đại diện có quyền và lợi ích đối lập với đương sự thì mục đích tham gia tố tụng của người đại diện sẽ không còn nữa. Thứ ba, Người đại diện tham gia quan hệ tố tụng trên cơ sở quan hệ đại diện và nhân danh đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự. Người đại diện thường không tự có tư cách tố tụng, tư cách đó chỉ có được khi pháp luật quy định trong một số trường hợp nhất định hoặc được đương sự trao cho họ thông qua các cơ chế về đại diện. Ngoài ra cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật đã quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó. Thứ tư, Quyền và nghĩa vụ TTDS của người đại diện của đương sự phụ thuộc vào quyền và nghĩa vụ của đương sự và bản chất của quan hệ đại diện. Vì là thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự thông qua quan hệ đại diện, do đó, quyền và nghĩa vụ của người đại diện phụ thuộc vào nội dung quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Quyền, nghĩa vụ tố tụng của những đương sự ở vị trí tố tụng khác nhau thì người đại diện cũng khác, theo đó người đại diện của từng loại đương sự khác nhau thì phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác nhau. Ví dụ, người đại diện của nguyên đơn thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn và người đại diện của bị đơn thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn. Bởi vì quan hệ đại diện rất đa dạng nên người đại diện sẽ được thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự ở các mức độ khác nhau. Đơn cử, trong quan hệ đại diện theo ủy quyền thì người đại diện sẽ chỉ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng theo phạm vi ủy quyền mà đương sự đưa ra; hay trong quan hệ đại diện theo pháp luật, người đại diện được thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
07 trường hợp không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án Căn cứ Điều 19 Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Theo đó, không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án trong 07 trường hợp sau đây: 1. Yêu cầu đòi bồi thường do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước; 2. Vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội; 3. Đương sự đã được mời tham gia hòa giải, đối thoại hợp lệ lần 2 mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan hoặc không thể tham gia hòa giải, đối thoại được vì lý do chính đáng; 4. Một bên vợ hoặc chồng trong tranh chấp ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự; 5. Một trong các bên đề nghị không tiến hành hòa giải, đối thoại; 6. Một trong các bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính; 7. Trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về các trường hợp không tiến hành thủ tục hòa giải đối thoại tại Tòa án. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Thế nào là người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự? Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về điều kiện trở thành người đại diện đương sự trong tố tụng dân sự? Sau đây, VIETLAWYER sẽ giúp bạn tìm hiểu 1. Khái niệm về người đại diện trong tố tụng dân sự Khoản 1 Điều 85 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) quy định về người đại diện như sau: “Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của bộ luật dân sự”. 2. Một số điều kiện quy định đối với người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự 2.1. Người đại diện của đương sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân Để đảm bảo sự thống nhất với quy định của Bộ Luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015), BLTTDS 2015 quy định người đại diện của đương sự trong TTDS có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Việc quy định như vậy làm rõ hơn khả năng làm người đại diện của pháp nhân, chủ thể pháp nhân nhận thức rõ hơn về khả năng của mình và chủ động trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Ngoài ra theo BLTTDS 2015: “Cơ quan tổ chức cá nhân khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người được bảo vệ.". 2.2 Người đại diện của đương sự là cá nhân có năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc là pháp nhân có năng lực chủ thể Người đại diện của đương sự tham gia tố tụng để tiếp nhận và thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự, vì vậy mà người đại điện của đương sự phải có đủ điều kiện để tham gia quan hệ tố tụng như một đương sự một cách trực tiếp. Nói cách khác, người đại diện của đương sự phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ. Với trường hợp người đại diện là pháp nhân theo quy định của BLDS thì pháp nhân cũng phải đảm bảo năng lực chủ thể được quy định tại BLDS 2015. Một tổ chức đảm bảo đầy đủ các điều kiện để có tư cách pháp nhân (được quy định tại khoản 1 điều 74 BLDS 2015) thì đồng thời đã đảm bảo được năng lực chủ thể cho mình. Mặc dù pháp nhân là người đại diện nhưng thực hiện quyền và nghĩa vụ của pháp nhân lại phải thông qua cá nhân cụ thể là người đại diện của pháp nhân, do đó cá nhân đó cũng phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ. 2.3. Những người không được làm người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự Để đảm bảo tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm tìm ra sự thật và đem lại công lý cho người dân, pháp luật đã đề ra những đối tượng không được làm người đại diện. Bởi một khi những người này tham gia tố tụng với vị trí người đại diện cho đương sự có thể làm mất đi tính khách quan và công bằng trong tương quan lợi ích của các bên đối lập nhau. Điều 87 BLTTDS 2015 quy định những trường hợp không được làm người đại điện như sau: Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người được đại điện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện; Xuất phát từ việc đối lập nhau về quyền lợi nên nếu người này làm đại diện cho đương sự thì quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không thể được bảo vệ và nếu để họ làm người đại diện cho đương sự thì ý nghĩa của việc tham gia tố tụng của người đại diện và ý nghĩa của hành vi đại điện không còn giá trị. Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ việc. Tương tự như trên, một chủ thể đóng hai vai trò của hai phía đối lập trong một mối quan hệ thì không còn tính khách quan. Cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật. Nếu những chủ thể này tham gia tố tụng với tư cách người đại diện của cơ quan mình hoặc người đại điện theo pháp luật của người thân mình thì cũng sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ thể được đại điện mà vẫn đảm bảo khách quan cho quá trình tham gia tố tụng. Nếu họ được làm người đại diện theo uỷ quyền thì quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện chưa chắc đã là ưu tiên số một thậm chí còn ảnh hưởng tiêu cực đến việc tìm ra sự thật của vụ án. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Nhà từ đường có được chia thừa kế không | Luật đất đai | Vietlawyer.vn? là băn khoăn của nhiều cá nhân, nhiều gia đình, nhiều dòng họ và đã có nhiều khách hàng gửi câu hỏi về Công ty Luật Vietlawyer. Tôi muốn chia thừa kế cho các con là nhà từ đường đứng tên tôi liệu có được không? - Bác V.Thanh (Cao Bằng) Cảm ơn bác đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật VietLawyer. Trên quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi trả lời câu hỏi của bác như sau:  1. Thế nào là nhà từ đường? Nhà từ đường là nơi thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi trong họ đó. Do vậy. về nguyên tắc được xem là công trình thuộc sở hữu chung của tập thể nên do các thành viên của tập thể đồng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thỏa thuận hoặc theo tập quán, dựa trên quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. 2. Nhà từ đường có được dùng để chia thừa kế? Tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng như sau: 1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng. Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. 2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Như vậy, bác không thể dùng nhà từ đường để chia thừa kế. Bác chỉ được chỉ định người quản lý nhà từ đường. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
Food Reviewer, hot Tiktoker và câu chuyện “đạp đổ chén cơm” của các quán ăn? Công ty Luật VietLawyer xin chia sẻ về vấn đề này như sau: 1. Khái niệm Food Reviewer, hot Tiktoker? Food reviewer (người đánh giá món ăn - PV) còn được biết đến là những người chia sẻ những trải nghiệm ẩm thực, đánh giá về món ăn, thức uống, quán xá trên các nền tảng mạng xã hội khác nhau. Mạng xã hội càng phát triển, nghề food reviewer càng trở nên phổ biến và được nhiều người theo đuổi, đặc biệt là các bạn trẻ. Điều này dẫn đến hiện tượng "lạm phát" nghề reviewer ẩm thực trên các nền tảng mạng xã hội. Tiktoker là gì? Giải thích đơn giản nhất có thể nói Tiktoker là những người sử dụng Tiktok. Nền tảng mạng xã hội đang rất phổ biến và phát triển rất nhanh hiện nay. Tuy nhiên, không phải những người sử dụng Tiktok chỉ để xem nội dung thì đều được gọi là Tiktoker. Tiktoker được dùng để chỉ những người sử dụng Tiktok và thường xuyên sáng tạo nội dung về một chủ đề nào đó. Nó được kết hợp giữa hai từ “Tiktok” và “User” (người dùng). 2.Tiktoker review "dìm hàng" các quán ăn liệu có vi phạm pháp luật? Hiện nay, trên mạng xã hội đang nổi lên các tiktoker chuyên đến các quán ăn để review. Hành vi này đã gây ra những ý kiến trái chiều. Có người phản đối vì tùy khẩu vị mỗi người nên không thể chỉ dựa theo khẩu vị của các tiktoker mà đánh giá chất lượng các món ăn. Cũng có nhiều người đồng tình vì nhờ thế khách hàng có thể lựa chọn nơi phục vụ tốt nhất. Hiện nay pháp luật chưa có quy định nào cấm các hành vi đánh giá hay chia sẻ những trải nghiệm của bản thân khi sử dụng một sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Bởi đây là quyền tự do ngôn luận của công dân được Hiến pháp ghi nhận. Các TikToker cũng là khách hàng, người tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ đó. Căn cứ khoản 4 Điều 8 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 quy định về quyền của người tiêu dùng: “4. Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.” Đồng thời, người tiêu dùng cũng có nghĩa vụ thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan khi phát hiện hàng hóa, dịch vụ lưu hành trên thị trường không bảo đảm an toàn, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng; hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Do đó, việc đi review các quán ăn không phải là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu cố tình review sai sự thật, gây thiệt hại cho các chủ nhà hàng, quán ăn thì đó là hành vi vi phạm pháp luật. 3. Tiktoker cố tình review sai sự thật bị xử lý như thế nào? Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 8 Luật An ninh mạng 2018 quy định các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng: “…d) Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;” Hành vi cố tình review sai sự thật có thể bị xử phạt vi phạm hành chính quy định tại các Điều 99, Điều 100, Điều 101, Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP (được sửa đổi bởi Khoản 37 Điều 1 Nghị định 14/2022/NĐ-CP) như sau: Điều 99: Vi phạm quy định về trang thông tin điện tử - Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: + Đưa thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân; - Biện pháp khắc phục hậu quả: + Buộc gỡ bỏ đường dẫn đến thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn, thông tin vi phạm pháp luật đối với hành vi vi phạm quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 99. Điều 100: Vi phạm các quy định về trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội - Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: + Chủ động lưu trữ, truyền đưa thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân; - Biện pháp khắc phục hậu quả: + Buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 100. Điều 101: Vi phạm các quy định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội; trang thông tin điện tử được thiết lập thông qua mạng xã hội - Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau: + Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; - Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và 2 Điều 101. Điều 102: Vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin - Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: + Giả mạo tổ chức, cá nhân và phát tán thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Do đó, tùy vào mức độ, việc review sai sự thật sẽ bị xử lý với các mức phạt tương ứng như trên. 4. Các quán ăn đồng loạt treo ảnh các tiktoker với dòng chữ "không tiếp người trong hình" liệu có vi phạm pháp luật? Hiện nay, việc các chủ quán từ chối và không tiếp các khách này là quyền của họ. Không có quy định nào cấm các quán ăn không được từ chối khách. Tuy nhiên, việc treo hoặc dán hình ảnh của người khác là đang vi phạm đến quyền hình ảnh. Căn cứ Điều 32 Bộ luật dân sự 2015, cá nhân có quyền nhân thân với hình ảnh của mình, và việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Vì vậy nên việc sử dụng hình ảnh của các reviewer, tiktoker dán ở cửa hàng của mình, đặc biệt là sử dụng vào mục đích hơi tiêu cực như cấm người đó đến quán mình ăn khi không được sự chấp thuận của người đó là không phù hợp với quy định của BLDS. Theo quan điểm của Luật sư Nguyễn Thị Thanh Phương - Công ty Luật VietLawyer thì chủ các cửa hàng quán ăn cũng không nên làm như vậy. Việc các chủ cửa hàng không muốn phục vụ một số cá nhân thì đó cũng là quyền của chủ cửa hàng, tuy nhiên cũng cần cân nhắc đến các hiệu ứng xã hội có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cửa hàng của mình. Trên đây là những chia sẻ của Công ty luật VietLawyer giải đáp thắc mắc của nhiều bạn đọc về việc sự việc đang nhận được nhiều sự quan tâm của bạn đọc. Với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý nếu khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website https://vietlawyer.vn/
03 trường hợp được hủy bỏ hợp đồng không phải bồi thường thiệt hại - Hủy bỏ hợp đồng là hình thức chấm dứt hiệu lực của hợp đồng đã được giao kết hợp pháp trước đó theo thỏa thuận của các bên ở hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Hiện nay, có 03 trường hợp được hủy bỏ hợp đồng không phải bồi thường thiệt hại.  Công ty Luật VietLawyer xin tư vấn về 03 trường hợp như sau: 1. 03 trường hợp được hủy bỏ hợp đồng không phải bồi thường thiệt hại Theo Điều 423 Bộ luật Dân sự 2015, một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau đây: - Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận - Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng - Trường hợp khác do luật quy định Lưu ý: Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. 2. Các trường hợp hủy bỏ hợp đồng khác 2.1. Hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ Hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ quy định tại Điều 424 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể: - Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ mà bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng. - Trường hợp do tính chất của hợp đồng hoặc do ý chí của các bên, hợp đồng sẽ không đạt được mục đích nếu không được thực hiện trong thời hạn nhất định mà hết thời hạn đó bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng mà không phải tuân theo quy định nêu trên. 2.2. Hủy bỏ hợp đồng do không có khả năng thực hiện Theo Điều 425 Bộ luật Dân sự 2015, trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình làm cho mục đích của bên có quyền không thể đạt được thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. 2.3. Hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp tài sản bị mất, bị hỏng Điều 426 Bộ luật Dân sự 2015 quy định trường hợp một bên làm mất, làm hư hỏng tài sản là đối tượng của hợp đồng mà không thể hoàn trả, đền bù bằng tài sản khác hoặc không thể sửa chữa, thay thế bằng tài sản cùng loại thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng. Bên vi phạm phải bồi thường bằng tiền ngang với giá trị của tài sản bị mất, bị hư hỏng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 351 và Điều 363 Bộ luật Dân sự 2015. 3. Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng Căn cứ Điều 427 Bộ luật Dân sự 2015, việc hủy bỏ hợp đồng có thể gặp phải các hậu quả pháp lý sau đây: - Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. - Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản. Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả. Trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn trả phải được thực hiện cùng một thời điểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. - Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia được bồi thường. - Việc giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật Dân sự 2015 và luật khác có liên quan quy định. - Trường hợp việc hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ quy định tại các điều 423, 424, 425 và 426 Bộ luật Dân sự 2015 thì bên hủy bỏ hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật VietLawyer, quý khách hàng có thắc mắc cần tư vấn hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp kịp thời.
Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích? - Một người mất tích hay không phải căn cứ vào các điều kiện nêu tại Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015. Công ty Luật VietLawyer xin tư vấn về tuyên bố một người mất tích như sau: 1. Xác định trường hợp người bị mất tích Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015: "Điều 68. Tuyên bố mất tích 1. Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. 2. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. 3. Quyết định của Tòa án tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch." Như vậy, bắt buộc phải được Tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất tích thì người đó mới được coi là mất tích. Sau khi có quyết định, Tòa án sẽ gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú về hộ tịch. 2. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích được pháp luật quy định như thế nào? 2.1. Đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích  1) Người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự. 2) Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt tích 02 năm liền trở lên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hoặc đã chết và chứng minh cho việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm; trường hợp trước đó đã có quyết định của Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú thì phải có bản sao quyết định đó. 2.2. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích 1) Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích. 2) Nội dung thông báo và việc công bố thông báo được thực hiện theo quy định tại Điều 384 và Điều 385 của Bộ luật này. Thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích là 04 tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên. 3) Trong thời hạn thông báo, nếu người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trở về và yêu cầu Tòa án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích. 4) Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn thông báo quy định tại khoản 2 Điều này thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu. 2.3. Quyết định tuyên bố một người mất tích Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất tích; trường hợp có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích đó và được chấp nhận thì trong quyết định tuyên bố một người mất tích, Tòa án còn phải quyết định áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người đó theo quy định của Bộ luật dân sự. 2.4. Khi nào được hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích? Theo Điều 390 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích khi: - Người bị Tòa án tuyên bố mất tích trở về hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự. - Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích, trong đó phải quyết định về hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật VietLawyer về thủ tục tuyên bố một người mất tích. Quý khách hàng có thắc mắc liên hệ ngay với chúng tôi để được giải quyết.
 
hotline 0927625666