Tất cả sản phẩm

Chị M (Hà Nội) có gửi câu hỏi về cho Vietlawyer như sau: "Xin chào Luật sư. Tôi và chồng tôi kết hôn năm 2021 nhưng dạo gần đây chúng tôi liên tục xảy ra mâu thuẫn và đã không còn ở chung với nhau nữa. Tôi muốn ly hôn nhưng tôi có phát hiện Giấy đăng ký kết hôn của tôi bị mất và Toà nói nếu không có Giấy đăng ký kết hôn thì không giải quyết cho tôi. Trong trường hợp này thì thủ tục cấp lại Giấy đăng ký kết hôn thực hiện như thế nào vậy? Tôi xin cảm ơn Luật sư." Cảm ơn bạn đã đặt câu hỏi cho Công ty Vietlawyer. Chúng tôi xin trả lời câu hỏi của bạn như sau: Theo khoản 1 Điều 24 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định: “Việc khai sinh, kết hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trước ngày 1/1/2016 nhưng Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì được đăng ký lại”. Như vậy, để giải quyết việc ly hôn trước tiên bạn cần đến Ủy ban nhân dân cấp xã, (có thể là nơi đã đăng ký kết hôn trước đây hoặc nơi bạn đang cư trú hiện nay) để nộp hồ sơ xin cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Thủ tục này được quy định tại Điều 27 Nghị định 123/2015/NĐ-CP, cụ thể như sau: Hồ sơ đăng ký lại kết hôn gồm các giấy tờ sau: - Tờ khai theo mẫu quy định; - Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn được cấp trước đây. Nếu không có bản sao Giấy chứng nhận kết hôn thì nộp bản sao hồ sơ, giấy tờ cá nhân có các thông tin liên quan đến nội dung đăng ký kết hôn. Trong năm ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, công chức tư pháp - hộ tịch kiểm tra, xác minh hồ sơ, nếu thấy hồ sơ đăng ký lại kết hôn là đầy đủ, chính xác, đúng quy định pháp luật thì công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện đăng ký lại kết hôn như trình tự quy định tại khoản 2 điều 18 của Luật Hộ tịch. Nếu việc đăng ký lại kết hôn thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã không phải là nơi đã đăng ký kết hôn trước đây thì công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân nơi đăng ký kết hôn trước đây kiểm tra, xác minh về việc lưu giữ sổ hộ tịch tại địa phương. Trong năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, Ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký kết hôn trước đây tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản về việc còn lưu giữ hoặc không lưu giữ được sổ hộ tịch. - Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh về việc không còn lưu giữ được sổ hộ tịch tại nơi đã đăng ký kết hôn, nếu thấy hồ sơ đầy đủ, chính xác, đúng quy định pháp luật công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện việc đăng ký lại kết hôn như quy định tại khoản 2 điều này. - Quan hệ hôn nhân được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn trước đây và được ghi rõ trong Giấy chứng nhận kết hôn, Sổ hộ tịch. Trường hợp không xác định được ngày, tháng đăng ký kết hôn trước đây thì quan hệ hôn nhân được công nhận từ ngày 1/1 của năm đăng ký kết hôn trước đây. Sau khi được cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, bạn có quyền nộp đơn xin ly hôn gửi lên Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết việc ly hôn với chồng. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer, với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666 để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
Luật Đất đai 2024 vừa được thông qua vào ngày 18/1 đã trở thành luật quan trọng, bởi đây là nền tảng pháp lý để tạo dựng một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh cho thị trường bất động sản trong thời gian tới. Đầu tiên, Luật Đất đai 2024 cho phép mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân không quá 15 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của cá nhân đối với mỗi loại đất và các quy định về tập trung đất nông nghiệp, tích tụ đất nông nghiệp. Thứ hai, Luật Đất đai 2024 quy định 31 trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng và quy định riêng trường hợp thu hồi đất để thực hiện dự án, công trình vì lợi ích quốc gia, công cộng không thuộc các trường hợp quy định tại điều trước đó thì Quốc hội sẽ sửa đổi, bổ sung thêm các trường hợp thu hồi đất. Thứ ba, Luật Đất đai 2024 đã bỏ khung giá đất và quy định bảng giá đất, theo đó bảng giá đất được xây dựng hằng năm và bảng giá đất lần đầu được công bố và áp dụng từ ngày 1/1/2026 và được điều chỉnh từ ngày 1/1 của năm tiếp theo. Việc này sẽ giúp cho bảng giá đất tiệm cận giá đất thị trường, nhưng quy định này cũng sẽ làm gia tăng áp lực công việc cho các địa phương. Thứ tư, Luật Đất đai 2024 bổ sung thêm Chương VIII về phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất, trước đó nội dung này không có trong Luật Đất đai 2013. Thứ năm, để đồng bộ với quy định phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất, Luật Đất đai 2024 cũng quy định cụ thể việc giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất đối với đất sạch do Nhà nước tạo lập hoặc giao đất, cho thuê đất thông qua đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất, cũng như đất chưa giải phóng mặt bằng mà nhà đầu tư trúng đấu thầu có trách nhiệm ứng vốn để thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thứ sáu, Luật Đất đai 2024 quy định khá thoáng về việc sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất đối với hầu hết dự án phát triển kinh tế - xã hội, gồm cả dự án nhà ở xã hội, chỉ trừ một số hạn chế đối với dự án nhà ở thương mại. Theo đó, dự án nhà ở thương mại chỉ được thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất ở và người có đất ở đề xuất làm dự án nhà ở thương mại thì phải được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư. Thứ bảy, Luật Đất đai 2024 quy định người sử dụng đất có quyền lựa chọn hình thức trả tiền thuê đất, gồm trả tiền thuê đất hằng năm hoặc trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê. Thứ tám, Luật Đất đai 2024 được cho phép áp dụng ngay một số quy định mà không cần chờ đến ngày có hiệu lực 1/1/2025. Có thể kể đến như quy định về định giá đất hoặc các quy định về sử dụng đất để thực hiện dự án lấn biển nhằm tháo gỡ các vướng mắc từ thực tiễn, nhất là việc cho phép áp dụng ngay các quy định về định giá đất sẽ tạo điều kiện cho Chính phủ xây dựng và ban hành Nghị định quy định về giá đất. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer, với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666 để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
Chị K (Nghệ An) có đặt câu hỏi cho Vietlawyer như sau: "Xin chào luật sư. Hiện tại gia đình tôi đang muốn chuyển đổi từ đất phi nông nghiệp sang đất ở thì gia đình chúng tôi phải nộp những khoản tiền nào ạ? Mong được luật sư giải đáp. Tôi cảm ơn." Cảm ơn bạn đã đặt câu hỏi cho Công ty Vietlawyer. Chúng tôi xin trả lời câu hỏi của bạn như sau: 1. Đất phi nông nghiệp là gì? Đất phi nông nghiệp là một danh mục đất rộng lớn, không phục vụ mục đích nông nghiệp mà thay vào đó được dành cho nhiều mục đích khác nhau. Nhìn chung, đất này bao gồm nhiều loại, từ đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đến đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất lâm nghiệp, đất nông nghiệp, đất ở nông thôn, đến đất ở đô thị và nhiều loại đất khác, mà tất cả đều không dành cho mục đích làm nông nghiệp. Đất phi nông nghiệp, một nhóm đất có mục đích sử dụng đa dạng, đóng vai trò quan trọng trong quản lý đất đai theo Luật Đất đai 2013. Theo khoản 2 Điều 10 của luật này, đất phi nông nghiệp bao gồm nhiều loại đất khác nhau, mỗi loại đều phục vụ cho mục đích cụ thể và đóng góp vào sự phát triển đa chiều của xã hội. Đất ở là một phần quan trọng của nhóm đất này, với đất ở tại nông thôn và đô thị, còn được gọi là đất thổ cư, đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng những không gian sống và làm việc cho cộng đồng. Đất xây dựng trụ sở cơ quan, đất dành cho quốc phòng, an ninh đóng góp vào cơ sở hạ tầng và an ninh quốc gia. Ngoài ra, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, bao gồm đất khu công nghiệp, khu chế xuất, đất thương mại, dịch vụ, là nền tảng cho sự phát triển kinh tế và sản xuất. Đất sử dụng cho mục đích công cộng như đất giao thông, thủy lợi, và đất có di tích lịch sử – văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển cộng đồng. Cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng cũng có đất riêng để phục vụ nhu cầu tôn giáo của cộng đồng, trong khi đất làm nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng giữ gìn và tôn vinh ký ức của người đã khuất. Với sự đa dạng này, nhóm đất phi nông nghiệp không chỉ phản ánh sự phức tạp của đời sống xã hội mà còn chứa đựng những cơ hội lớn cho sự phát triển bền vững và hiệu quả của đất đai trong cộng đồng. 2. Các loại phí phải nộp khi chuyển đổi đất phi nông nghiệp sang đất ở  Chuyển đổi đất phi nông nghiệp sang đất ở là quá trình thay đổi mục đích sử dụng của một khu vực đất từ mục đích ban đầu không phải là nông nghiệp sang mục đích làm đất ở. Điều này có thể xảy ra khi một khu vực đất, ban đầu được xác định cho các mục đích khác như công nghiệp, dịch vụ, hoặc khác, sau đó được quyết định chuyển đổi để phát triển dự án nhà ở, khu đô thị, hoặc các mục đích dân cư khác. Phí chuyển đổi đất phi nông nghiệp sang đất ở bao gồm: Tiền sử dụng đất Tiền sử dụng đất đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất thổ cư, đặc biệt là khi xem xét hai trường hợp cụ thể theo quy định của Nghị định 45/2014/NĐ-CP. Trong Trường hợp 1, khi chuyển từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở, quy định tại Điểm a, Khoản 2 Điều 5 của Nghị định 45/2014/NĐ-CP rõ ràng chỉ đạo về việc không công nhận đất này là đất ở thuộc khu dân cư. Trong trường hợp này, người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất bằng 50% chênh lệch giữa giá đất ở và giá đất nông nghiệp. Điều này áp dụng khi đất vườn, ao được chuyển sang làm đất ở và người sử dụng đất tách ra để chuyển quyền. Trong Trường hợp 2, khi chuyển từ đất nông nghiệp được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất sang đất ở, quy định tại Điểm b, Khoản 2 Điều 5 của Nghị định 45/2014/NĐ-CP chỉ đạo về việc tính tiền sử dụng đất bằng chênh lệch giữa giá đất ở và giá đất nông nghiệp. Trong trường hợp này, tiền sử dụng đất phải nộp là mức chênh lệch giữa giá đất ở và giá đất nông nghiệp tại thời điểm có quyết định chuyển mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tổng cộng, cả hai trường hợp trên đều thể hiện rằng việc nộp tiền sử dụng đất khi chuyển đất nông nghiệp sang đất ở được quy định chặt chẽ và minh bạch, đồng thời giúp đảm bảo công bằng trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Lệ phí cấp Giấy chứng nhận – Đối tượng áp dụng: Nộp lệ phí trước bạ khi được cấp Giấy chứng nhận mới. – Mức nộp: Từ 100.000 đồng trở xuống/lần cấp. Lệ phí trước bạ – Đối tượng phải nộp: Đa số các trường hợp không phải nộp, chỉ áp dụng đối với trường hợp cấp Giấy chứng nhận mà được miễn lệ phí trước bạ, sau đó được chuyển mục đích sử dụng đất mà thuộc diện phải nộp lệ phí. – Cách tính lệ phí trước bạ: Lệ phí trước bạ = (Giá đất tại bảng giá đất x Diện tích) x 0.5% Phí thẩm định hồ sơ Phí thẩm định hồ sơ do Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định nên: – Không phải tỉnh thành nào cũng thu loại phí này. – Nếu có thu thì mức thu giữa các tỉnh thành là không giống nhau. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer, với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666 để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
Các loại hình dịch vụ vận tải chở thuê hàng hoá được sử dụng rất phổ biến hiện nay. Khi được thuê vận chuyển hàng hoá cho người khác, người chở thuê có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng hoá trên xe. Nếu phát hiện hàng hoá trên xe là hàng hoá sai phạm, người chở thuê có nghĩa vụ phải báo cho cơ quan có thẩm quyền. Nếu biết hàng hoá sai phạm mà vẫn tiếp tục chở thì sẽ bị xử phạt theo quy định. Vậy theo quy định hiện hành, người vận chuyển hàng hóa sai phạm bị xử phạt hành chính như thế nào?  Đối với xe chở hàng thuê, họ có trách nhiệm phải tìm hiểu hàng hóa mà họ vận chuyển có hóa đơn, chứng từ hay không, có thuộc diện hàng cấm hay không. Trách nhiệm chứng minh người lái xe biết hay không biết thuộc cơ quan bảo vệ pháp luật, phòng chống buôn lậu. Trường hợp cơ quan chức năng chứng minh được lái xe biết hoặc buộc phải biết hàng hóa đó không có hóa đơn nhưng vẫn cố tình vận chuyển thì họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi vi phạm. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà người lái xe có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển hàng cấm được quy định tại Điều 191 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Về xử phạt hành chính, theo Điều 15 Nghị định 98/2020/NĐ-CP quy định về mức xử phạt hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu như sau: Điều 15. Hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu 1. Đối với hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu, mức phạt tiền như sau: a) Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng trong trường hợp hàng hóa nhập lậu có trị giá dưới 3.000.000 đồng; b) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng trong trường hợp hàng hóa nhập lậu có giá trị từ 3.000.000 đồng đến dưới 5.000.000 đồng; c) Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng trong trường hợp hàng hóa nhập lậu có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 10.000.000 đồng; d) Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng trong trường hợp hàng hóa nhập lậu có giá trị từ 10.000.000 đồng đến dưới 20.000.000 đồng; đ) Phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng trong trường hợp hàng hóa nhập lậu có giá trị từ 20.000.000 đồng đến dưới 30.000.000 đồng; e) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng trong trường hợp hàng hóa nhập lậu có giá trị từ 30.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng; g) Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng trong trường hợp hàng hóa nhập lậu có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 70.000.000 đồng; h) Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng trong trường hợp hàng hóa nhập lậu có giá trị từ 70.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; i) Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng trong trường hợp hàng hóa nhập lậu có giá trị từ 100.000.000 đồng trở lên. 2. Phạt tiền gấp hai lần mức tiền phạt đối với hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu quy định tại khoản 1 Điều này trong các trường hợp sau đây: a) Người vi phạm trực tiếp nhập lậu hàng hóa có giá trị dưới 100.000.000 đồng hoặc từ 100.000.000 đồng trở lên mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự; b) Hàng hóa nhập lậu thuộc danh mục cấm nhập khẩu hoặc tạm ngừng nhập khẩu; c) Hàng hoá nhập lậu là thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, chất bảo quản thực phẩm, thuốc phòng bệnh và thuốc, nguyên liệu làm thuốc, mỹ phẩm, trang thiết bị y tế, hoá chất, chế phẩm diệt con trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản, sản phẩm xử lý chất thải chăn nuôi, thuốc thú y, phân bón, xi măng, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, chất kích thích tăng trưởng, giống cây trồng, giống vật nuôi. 3. Các mức phạt tiền quy định tại khoản 1 và 2 Điều này cũng được áp dụng xử phạt hành chính đối với: a) Hành vi cố ý vận chuyển hàng hóa nhập lậu; b) Hành vi cố ý tàng trữ hàng hóa nhập lậu; c) Hành vi cố ý giao nhận hàng hóa nhập lậu. 4. Hình thức xử phạt bổ sung: a) Tịch thu tang vật đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều này, trừ trường hợp áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm a khoản 5 Điều này; b) Tịch thu phương tiện vận tải vi phạm đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều này trong trường hợp tang vật vi phạm có giá trị từ 200.000.000 đồng trở lên hoặc vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm. 5. Biện pháp khắc phục hậu quả: a) Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại, hàng hóa không bảo đảm an toàn sử dụng đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều này; b) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại Điều này. Như vậy, người vận chuyển hàng hóa sai phạm thì tùy mức độ vi phạm mà có thể bị phạt tiền từ 500.000 đến 100 triệu đồng. Ngoài ra, người vi phạm còn có thể bị tịch thu tang vật, phương tiện vận tải vi phạm; buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer, với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666 để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
Cứ vào mỗi dịp tết đến xuân về là thị trường kinh doanh các loại pháo hoa, pháo nổ lại được dịp sôi động, bởi nhiều người cho rằng việc bắn pháo hoa sẽ làm tăng thêm không khí vui mừng của ngày tết. Tuy nhiên việc bắn pháo hoa lại tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây cháy nổ, dẫn đến việc mất an toàn nơi công cộng, vậy nên pháp luật nước ta quy định rất cụ thể về các trường hợp được phép mua bán, sử dụng pháo hoa. Vậy,  trong bài viết sau đây, VietLawyer sẽ cung cấp đến bạn đọc những thông tin về "Cá nhân kinh doanh pháo hoa có bị phạt không?" Theo quy định tại khoản 6 Điều 11 Nghị định 144/2021/NĐ-CP về việc xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán pháo như sau: Vi phạm quy định về quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ, pháo và đồ chơi nguy hiểm bị cấm … 6. Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, hành vi sản xuất, buôn bán pháo nổ được xử lý, xử phạt theo Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa chất, vật liệu nổ công nghiệp, Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Theo đó, theo quy định tại Điều 8 Nghị định 98/2020/NĐ-CP về việc xử lý hành vi vi phạm buôn bán pháo như sau: Hành vi sản xuất, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ, giao nhận hàng cấm 1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: … c) Buôn bán pháo nổ dưới 0,5 kilôgam; … 2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: … c) Buôn bán pháo nổ từ 0,5 kilôgam đến dưới 1 kilôgam; … 3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: … c) Buôn bán pháo nổ từ 1 kilôgam đến dưới 2 kilôgam; … 4. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: … c) Buôn bán pháo nổ từ 2 kilôgam đến dưới 3 kilôgam; … 5. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: … c) Buôn bán pháo nổ từ 3 kilôgam đến dưới 4 kilôgam; … 6. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: … c) Buôn bán pháo nổ từ 4 kilôgam đến dưới 5 kilôgam; … 7. Phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 90.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: … c) Buôn bán pháo nổ từ 5 kilôgam đến dưới 6 kilôgam; ... 8. Phạt tiền từ 90.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau trong trường hợp không bị truy cứu trách nhiệm hình sự: … c) Buôn bán pháo nổ từ 6 kilôgam trở lên; … 9. Phạt tiền gấp hai lần mức tiền phạt quy định từ khoản 1 đến khoản 8 Điều này đối với hành vi sản xuất hàng cấm tương ứng quy định tại các khoản từ khoản 1 đến khoản 8 Điều này. Lưu ý: Mức phạt tiền trên là mức phạt tiền áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính do cá nhân thực hiện. Trường hợp hành vi vi phạm hành chính do tổ chức thực hiện thì phạt tiền gấp hai lần mức phạt tiền quy định đối với cá nhân. Như vậy, cá nhân thực hiện hành vi kinh doanh buôn bán pháo có thể bị xử phạt vi phạm hành chính tương ứng với mức độ vi phạm cũng như khối lượng pháo sử dụng cho mục đích kinh doanh của cá nhân. Trên đây là chia sẻ của Công ty Luật VietLawyer, với kinh nghiệm nhiều năm trong mọi lĩnh vực pháp lý, nếu khách hàng có nhu cầu tư vấn các vấn đề liên quan đến các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: https://vietlawyer.vn/ hoặc Hotline: 0927.625.666 để được tư vấn và giải đáp thắc mắc.
Chiều nay 12/1, Hội đồng xét xử (HĐXX) tòa án nhân dân TP Hà Nội tuyên án đối với 38 bị cáo trong đại án Việt Á.  Trong đó, cựu Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long lĩnh án 18 năm tù về tội Nhận hối lộ; cựu Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh lĩnh án 3 năm tù về tội Vi phạm quy định về quản lý sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí. Phan Quốc Việt (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Việt Á) bị tuyên 29 năm tù với 2 tội danh. Cựu Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương Phạm Xuân Thăng lĩnh 5 năm tù. Bị cáo Chu Ngọc Anh được dẫn giải đến phiên tuyên án chiều 12/1 (Ảnh: Nguyễn Hải). Nhóm bị cáo phạm tội Vi phạm quy định đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng và Đưa hối lộ: Phan Quốc Việt (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Việt Á) lĩnh 14 năm tù về tội Đưa hối lộ; 15 năm tù về tội Vi phạm quy định đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng. Tổng hình phạt 29 năm tù. Vũ Đình Hiệp (Phó Tổng giám đốc Công ty Việt Á) 7 năm tù về tội Vi phạm quy định đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng; 8 năm tù về tội Đưa hối lộ. Tổng hình phạt 15 năm tù. Nhóm bị cáo phạm tội Nhận hối lộ: Nguyễn Thanh Long (cựu Bộ trưởng Y tế) nhận mức án 18 năm tù. Phạm Duy Tuyến (cựu Giám đốc CDC Hải Dương) nhận mức án 13 năm tù. Trịnh Thanh Hùng (cựu Vụ phó thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ) nhận mức án 14 năm tù. Nguyễn Huỳnh (cựu Phó phòng Quản lý giá thuốc, Cục Quản lý Dược, Bộ Y tế) lĩnh án 9 năm tù. Nguyễn Nam Liên (cựu vụ trưởng Kế hoạch Tài chính, Bộ Y tế) lĩnh 7 năm tù. Cựu Bộ trưởng Nguyễn Thanh Long tại phiên tòa (Ảnh: Nguyên Phương). Nhóm các bị cáo phạm tội Đưa hối lộ: Phan Tôn Noel Thảo (trợ lý Tài chính Việt Á) 4 năm tù. Hồ Thị Thanh Thảo (thủ quỹ của Việt Á) 4 năm tù. Nhóm các bị cáo phạm tội Vi phạm quy định về quản lý sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí: Chu Ngọc Anh (cựu Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ) lĩnh án 3 năm tù. Phạm Công Tạc (cựu Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ) lĩnh 3 năm tù. Nhóm các bị cáo phạm tội Vi phạm quy định đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng: Trần Thị Hồng (nhân viên Công ty Việt Á) 30 tháng tù. Trần Tiến Lực (nhân viên Công ty Việt Á) 36 tháng tù. Lê Trung Nguyên (nhân viên Công ty Việt Á) 30 tháng tù. Ngụy Thị Hậu (phó phòng Tài chính kế toán, CDC tỉnh Bắc Giang) 30 tháng tù. Phan Huy Văn (Giám đốc Công ty Dược Phan Anh) 36 tháng tù. Phan Thị Khánh Vân (kinh doanh tự do) 36 tháng tù. Lâm Văn Tuấn (cựu Giám đốc CDC tỉnh Bắc Giang) 5 năm tù. Nguyễn Mạnh Cường (cựu kế toán trưởng CDC tỉnh Hải Dương) 30 tháng tù. Nguyễn Thị Trang (cựu Giám đốc Trung tâm tư vấn và dịch vụ tài chính, Sở Tài chính tỉnh Hải Dương) 30 tháng tù treo. Tiêu Quốc Cường (cựu kế toán trưởng, cựu Phó phòng Kế hoạch Tài chính, Sở Y tế tỉnh Bình Dương) 36 tháng tù. Trần Thanh Phong (cựu Phó phòng Tài chính Kế toán, CDC tỉnh Bình Dương) 24 tháng tù treo. Lê Thị Hồng Xuyên (cựu nhân viên CDC tỉnh Bình Dương) 24 tháng tù. Nguyễn Trường Giang (Giám đốc Công ty VNDAT) 30 tháng tù. Nguyễn Thị Thúy (Giám đốc dự án, Công ty VNDAT) 26 tháng tù. Nguyễn Văn Định (cựu giám đốc CDC tỉnh Nghệ An) 2 năm 12 ngày (bằng thời hạn tạm giam) Nguyễn Thị Hồng Thắm (cựu kế toán trưởng, CDC tỉnh Nghệ An) 2 năm 12 ngày (bằng thời hạn tạm giam) Hồ Công Hiếu (nhân viên Công ty Thẩm định giá miền nam, chi nhánh Nghệ An) 24 tháng tù treo. Vũ Văn Doanh (Giám đốc Công ty Thẩm định giá Thăng Long) 24 tháng tù treo. Tạ Ngọc Chức (Tổng giám đốc Công ty Thẩm định và Đầu tư Toàn Cầu) 20 tháng tù. Ninh Văn Sinh (cựu Phó giám đốc Công ty Thẩm định giá Trung Tín) 18 tháng tù. Nhóm bị cáo phạm tội Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Phạm Mạnh Cường (cựu Giám đốc Sở Y tế tỉnh Hải Dương) 4 năm tù. Nguyễn Văn Trịnh (cựu cán bộ Văn phòng Chính phủ) 4 năm tù. Phạm Xuân Thăng (cựu Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương) 5 năm tù. Nhóm các bị cáo phạm tội Lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi: Nguyễn Bạch Thùy Linh (Giám đốc Công ty SNB Holdings) 30 tháng tù treo. Nguyễn Thị Thanh Thủy (cựu chuyên viên Nhà xuất bản Giáo dục) 30 tháng tù. Cựu Giám đốc CDC Bình Dương được miễn trách nhiệm hình sự Dựa vào hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi, diễn biến tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy vụ án này xảy ra trong bối cảnh chưa có tiền lệ, khi dịch bệnh bùng phát, nhiều địa phương, cơ sở y tế "vỡ trận". HĐXX cho rằng đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi sai phạm của các bị cáo. Trong vụ án này, theo TAND TP Hà Nội, các bị cáo vì lợi ích vật chất đã thực hiện trái quy định của pháp luật, tạo điều kiện để doanh nghiệp trục lợi, gây thiệt hại cho Nhà nước đặc biệt nghiêm trọng...; làm cho một bộ phận cán bộ, công chức bị thoái hóa biến chất, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, đối với các bị cáo tích cực chống dịch và không hưởng lợi, HĐXX xem xét cho hưởng khoan hồng đặc biệt. Về những tình tiết giảm nhẹ, HĐXX đánh giá các bị cáo đều thành khẩn khai báo, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, thể hiện thái độ thành khẩn. Ngoài ra, hầu hết các bị cáo đều đã nộp tiền hoặc tác động gia đình nộp tiền khắc phục hậu quả. Đặc biệt còn có những bị cáo không hưởng lợi nhưng vẫn tác động người thân nộp tiền để khắc phục hậu quả vụ án. Bị cáo Nguyễn Thành Danh (Ảnh: Nam Phương). Trước đó, VKS đề nghị HĐXX tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thành Danh (cựu Giám đốc CDC tỉnh Bình Dương) mức án 10 tháng 4 ngày (bằng thời gian tạm giam) về tội Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng. Tại phiên toà có rất nhiều luật sư bảo vệ cho 38 bị cáo khác nhau. Trong đó, Luật sư Nguyễn Thị Thanh Phương - Đoàn Luật Sư thành phố Hà Nội, với kinh nghiệm và trình độ của mình đã bảo vệ thành công cho thân chủ của mình. Thân chủ của Luật sư Phương bị truy tố với khung hình phạt có mức cao nhất là "tử hình" và sau đó cùng với việc bào chữa của Luật sư đã giúp thân chủ nhận quyết định của Tòa án là nhận mức án 13 năm tù. 
Sau hơn 10 ngày mở phiên tòa, chiều nay 12.1, TAND TP.Hà Nội sẽ tuyên án đối với 38 bị cáo trong vụ án liên quan đến Công ty CP Công nghệ Việt Á (Công ty Việt Á), Bộ Y tế, Bộ KH-CN và một số địa phương. Phiên tòa kết thúc sớm hơn khá nhiều so với dự kiến ban đầu là 20 ngày. Trước đó, đại diện viện kiểm sát đã trình bày quan điểm luận tội, 38 bị cáo và luật sư bào chữa tham gia tranh luận. Do tính chất vụ án, hội đồng xét xử quyết định nghị án kéo dài. Toàn cảnh phiên tòa xét xử "đại án" kit test Việt Á   Thu lời ngàn tỉ, lấy tiền chi "hoa hồng" và hối lộ Theo cáo buộc của viện kiểm sát, đầu năm 2020, dịch Covid-19 bùng phát tại Trung Quốc rồi lây lan sang một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Học viện Quân y chủ trì, phối hợp với Công ty Việt Á được giao triển khai đề tài nghiên cứu kit test Covid-19, kinh phí gần 19 tỉ đồng, trích từ ngân sách nhà nước. Quá trình thực hiện, các bị cáo tại Công ty Việt Á, Bộ Y tế, Bộ KH-CN và một số đơn vị đã có hàng loạt sai phạm, biến kết quả nghiên cứu về kit test Covid-19 từ tài sản nhà nước thành tài sản tư nhân. Công ty Việt Á sau đó sản xuất hơn 8,7 triệu kit test, nâng khống giá nguyên liệu đầu vào rồi bán cho các đơn vị, cơ sở y tế trên khắp cả nước; thu lợi bất chính hơn 1.235 tỉ đồng. Nhìn lại toàn cảnh vụ kit test Việt Á trước khi tòa tuyên án Để có thể thuận lợi "chen chân" vào đề tài nghiên cứu, được nghiệm thu, cấp phép lưu hành rồi phân phối kit test, Tổng giám đốc Công ty Việt Á Phan Quốc Việt bỏ ra hơn 106 tỉ đồng hối lộ các quan chức. Người nhận nhiều nhất là cựu Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long với 2,25 triệu USD, cựu Giám đốc CDC tỉnh Hải Dương Phạm Duy Tuyến nhận 27 tỉ đồng, cựu Phó vụ trưởng Vụ KH-CN Các ngành kinh tế - kỹ thuật (Bộ KH-CN) nhận 350.000 USD... Tổng giám đốc Công ty Việt Á cũng chi hàng chục tỉ đồng nhằm cảm ơn một số quan chức đã đưa ra quyết định trái pháp luật, có lợi cho công ty. Trong đó, cựu Bộ trưởng KH-CN Chu Ngọc Anh nhận 200.000 USD; cựu Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương Phạm Xuân Thăng nhận 100.000 USD… Chưa dừng lại, để bán được nhiều kit test tại nhiều địa phương, cơ sở y tế, Công ty Việt Á có chủ trương ứng kit test trước cho các đơn vị này sử dụng, sau đó mới hợp thức hồ sơ đấu thầu. Quá trình hợp thức, phía Công ty Việt Á chi phần trăm ngoài hợp đồng cho lãnh đạo các đơn vị, tổng số tiền cũng lên tới cả chục tỉ đồng. Bị cáo Phan Quốc Việt (trái) và Trịnh Thanh Hùng, những người có vai trò xuyên suốt trong quá trình "ra đời" kit test Việt Á Tổng giám đốc Việt Á: Chi tiền cho quan chức theo barem Khai tại tòa, Tổng giám đốc Công ty Việt Á Phan Quốc Việt nhiều lần "tự hào" về sản phẩm kit test, về những "đóng góp" của công ty này đối với công tác phòng, chống dịch. Tuy nhiên, lập luận này bị viện kiểm sát bác bỏ, bởi lẽ Công ty Việt Á đã nâng khống giá kit test để có nguồn tiền chi cho các cựu quan chức, lợi nhuận thu về là không hợp pháp. "Đi phòng, chống dịch để có lợi nhuận bất hợp pháp và dùng số tiền bất hợp pháp ấy để hối lộ, chi tiền phần trăm… thì không thể xem xét đến yếu tố có công chống dịch", kiểm sát viên nói. Đáng chú ý, Phan Quốc Việt thừa nhận chi hàng trăm tỉ đồng tiền hối lộ và "hoa hồng" bán kit test, nhưng cho rằng đây chỉ là sự chia sẻ lợi nhuận mà công ty có được, chứ không phải phạm pháp. Việc chi tiền được thực hiện theo barem với các tiêu chí như: vị trí công việc của người được chi tiền, lợi nhuận của Công ty Việt Á, đóng góp của người được chi tiền đối với lợi nhuận mà công ty có được. Về phía các cựu quan chức bị cáo buộc nhận tiền từ Việt Á, đa phần đều nhận tội, nhưng cho rằng nhận vì phía Công ty Việt Á chủ động, tự nguyện, chứ hai bên không hề thỏa thuận hay bàn bạc từ trước. Cựu Bộ trưởng Nguyễn Thanh Long khẳng định không có bất cứ sự ưu ái nào đối với Công ty Việt Á trong quá trình cấp phép kit test. Trong khi đó, cựu Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nói rằng muốn trả lại tiền nhưng vì dịch bệnh bề bộn nên "không nhớ để trả", hiện giờ không biết chiếc vali đựng tiền ở đâu, "thấy rất đau xót". Hay như cựu Giám đốc CDC Hải Dương Phạm Duy Tuyến, dù nhận hối lộ tới 27 tỉ đồng, nhưng bị cáo này nói rằng không có sự bàn bạc gì với Công ty Việt Á, "chỉ biết làm và làm". Khi được Việt Á chi tiền, bị cáo thấy việc này chỉ là sự chia sẻ lợi nhuận, nghĩ là không vi phạm pháp luật nên mới nhận; đến khi bị bắt, bị cáo mới biết là sai. Đại diện viện kiểm sát (phải) đánh giá đây là vụ án điển hình của lợi ích nhóm, tham nhũng có hệ thống 36/38 bị cáo được đề nghị mức án dưới khung truy tố "Đại án" kit test Việt Á có 38 bị cáo bị truy tố về 5 tội danh khác nhau. Trong đó, 6 cựu quan chức bị truy tố về tội nhận hối lộ, với khung hình phạt 20 năm, chung thân hoặc tử hình. Nhiều tội danh còn lại mà các bị cáo bị truy tố cũng có khung hình phạt từ 10 năm trở lên. Trong bản luận tội, viện kiểm sát đánh giá vụ án này là điển hình của lợi ích nhóm, tham nhũng có hệ thống, gây thiệt hại tài sản cho Nhà nước đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi của các bị cáo cho thấy sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ công chức, làm giảm sút lòng tin của người dân. Tuy vậy, có tới 36/38 bị cáo được đại diện viện kiểm sát đề nghị mức án dưới khung truy tố. Ở tội danh nhận hối lộ, cựu Bộ trưởng Nguyễn Thanh Long là người duy nhất bị đề nghị mức án nằm trong khung truy tố (19 - 20 năm tù). Các bị cáo khác đều có mức án đề nghị thấp hơn, điển hình như Phạm Duy Tuyến 13 - 14 năm tù, Trịnh Thanh Hùng 14 - 15 năm tù… Ở tội danh đưa hối lộ và vi phạm quy định đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng, Phan Quốc Việt là người duy nhất bị đề nghị mức án trong khung truy tố (mỗi tội 15 - 16 năm tù, tổng hợp hình phạt 30 năm tù). Các bị cáo còn lại đều được đề nghị thấp hơn khung truy tố. Tương tự, 2 cựu Ủy viên T.Ư cũng được đề nghị mức án thấp hơn khá nhiều khung truy tố, gồm cựu Bộ trưởng KH-CN Chu Ngọc Anh 3 - 4 năm tù (khung truy tố 10 - 20 năm tù) về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí; cựu Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương Phạm Xuân Thăng 5 - 6 năm tù (khung truy tố 10 -15 năm) về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Ân hận, xót xa, "không còn gì biện minh" Trước khi vào nghị án, hội đồng xét xử cho các bị cáo nói lời sau cùng. Cả 38 bị cáo đều bày tỏ sự ăn năn, hối lỗi, một số người bật khóc, mong được hưởng khoan hồng để sớm trở về với gia đình, xã hội. Cựu Bộ trưởng Nguyễn Thanh Long bày tỏ sự ân hận, nói rất đau khổ, xót xa trước những sai phạm đã gây ra. Bị cáo khẳng định thời điểm xảy ra vụ án là giai đoạn rất khó khăn, cam go trong lịch sử ngành y tế. Bản thân và đồng nghiệp luôn cố gắng để chống dịch, cứu người, "chưa một giây phút nào bị cáo được nghỉ ngơi, lúc nào cũng nghĩ phải giữ vững hệ thống y tế, cứu sống bệnh nhân". Cựu Bộ trưởng Chu Ngọc Anh gửi lời xin lỗi tới Tổng Bí thư, Đảng, Nhà nước và nhân dân, vì những sai phạm do mình gây ra. Bị cáo cảm thấy "thật đau xót, không có gì biện minh". Ông nói rằng, sai phạm thì phải bị trừng phạt, đã phải trả giá bằng hơn 500 ngày day dứt sau khi bị bắt tạm giam, thậm chí sự day dứt ấy sẽ đeo bám bị cáo đến cả khi đã được trở về với xã hội. Cựu Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương Phạm Xuân Thăng thì nói "rất buồn đau, hối tiếc" khi vứt bỏ 34 năm luôn cố gắng rèn luyện. Ông đã nhận thức sâu sắc về sai phạm của mình khi chỉ đạo không đúng đường lối của Đảng, Nhà nước; coi đây là bài học đau xót, đắt giá nhất. Bị cáo cũng gửi lời tới lãnh đạo các địa phương là "dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, kể cả cấp bách, thì cũng hãy thực hiện đúng pháp luật để không rơi vào sai phạm"; đồng thời đề nghị cơ quan lập pháp có những sửa đổi về quy định pháp luật, tạo hành lang pháp lý để đáp ứng khi có các tình huống cấp bách xảy ra. Đáng chú ý, Tổng giám đốc Công ty Việt Á Phan Quốc Việt xin nhận toàn bộ trách nhiệm về mình để giảm nhẹ cho các nhân viên công ty; đồng thời mong được hội đồng xét xử xem xét giữa đóng góp và sai phạm của bản thân khi lượng hình. Việt gửi lời tới các bị cáo là nhân viên Công ty Việt Á hãy "an yên, nhẹ nhàng", rằng "ở tù không ai muốn, nhưng nếu lỡ phải ngồi tù, hãy biến cái nguy không ai muốn thành cái cơ không ai có, để chuẩn bị hành trang sau này vẫn có thể cống hiến cho xã hội".  Nguồn: Báo Thanh niên
Tại Việt Nam, việc quản lý pháo nổ đã thực hiện theo Chỉ thị số 406/CT-TTg ngày 08/8/1994 của Thủ tướng Chính phủ; gần đây có thêm Nghị định 137/2020/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng pháo. Trong các ngày lễ lớn, các ngày Tết, ngày hội có tổ chức bắn pháo hoa, đốt pháo hoa thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phải thông báo cho nhân dân biết thời gian, địa điểm bán pháo hoa, đốt pháo hoa.  Theo Điều 17 Nghị định 137/2020/NĐ-CP có quy định các trường hợp được sử dụng pháo hoa: + Cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được sử dụng pháo hoa trong các trường hợp sau: Lễ, tết, sinh nhật, cưới hỏi, hội nghị, khai trương, ngày kỷ niệm và trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật. + Cơ quan, tổ chức, cá nhân khi sử dụng pháo hoa chỉ được mua pháo hoa tại các tổ chức, doanh nghiệp được phép sản xuất, kinh doanh pháo hoa. Pháo hoa là sản phẩm được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, khi có tác động của xung kích thích cơ, nhiệt, hóa hoặc điện tạo ra các hiệu ứng âm thanh, ánh sáng, màu sắc trong không gian, không gây ra tiếng nổ. Theo đó, người dân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được mua và sử dụng pháo hoa thông qua các tổ chức, doanh nghiệp được phép sản xuất, kinh doanh pháo hoa. Hiện nay chỉ có Công ty TNHH Một thành viên hóa chất 21 (Nhà máy Z121) thuộc Bộ Quốc phòng là nơi duy nhất được giao sản xuất, cung ứng pháo hoa tại nước ta. Một số loại pháo hoa Z121 được Công ty TNHH Một Thành Viên Hóa chất 21 của Bộ Quốc phòng niêm yết từ 01/8/2023 mà người dân được phép mua và đốt một số loại pháo hoa bao gồm: ống phun nước, cây hoa lửa, cánh hoa xoay, thác nước bạc, giàn phun viên, giàn nhấp nháy... STT Loại pháo hoa Giá bán 1 Ống phun nước bạc ngoài trời 25.000 đồng/ống 2 Ống phun nước bạc trong nhà 26.000 đồng/ống 3 Ống phun hoa lửa cầm tay loại 200 mm 33.000 đồng/túi 05 ống 4 Ống phun hoa lửa cầm tay loại 150 mm 32.000 đồng/túi 05 ống 5 Cây hoa lửa 13.000 đồng/túi 10 cây 6 Cánh hoa xoay 55.000 đồng/bộ 7 Thác nước bạc loại 2m 450.000 đồng/dây 8 Giàn phun hoa 25 ống 330.000 đồng/giàn 9 Giàn phun hoa 36 ống 438.000 đồng/giàn 10 Giàn phun viên 36 ống 398.000 đồng/giàn 11 Giàn phun viên đặc biệt 25 ống 330.000 đồng/giàn 12 Giàn phun viên 25 ống: - sản xuất trước 31/12/2022 - sản xuất từ 01/01/2023   216.000 đồng/giàn 250.000 đồng/giàn 13 Giàn nhấp nháy 25 ống: - sản xuất trước 31/12/2022 - sản xuất từ 01/01/2023   231.000 đồng/giàn 264.000 đồng/giàn 14 Giàn nhấp nháy 36 ống 438.000 đồng/giàn Đồng thời, các loại pháo hoa này đều không gây tiếng nổ mà chỉ tạo ra hiệu ứng ánh sáng, màu sắc đẹp mắt, phù hợp với mục đích giải trí. Việc mua và sử dụng pháo hoa phải tuân thủ các quy định về độ tuổi, giấy tờ tùy thân và cách sử dụng an toàn. Căn cứ tại điểm i khoản 3 Điều 11 Nghị định 144/2021/NĐ-CP,  điểm a khoản 7 Điều 11 Nghị định 144/2021/NĐ-CPquy định như sau: Vi phạm quy định về quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ, pháo và đồ chơi nguy hiểm bị cấm 3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: ... i) Sử dụng các loại pháo, thuốc pháo trái phép; ... 7. Hình thức xử phạt bổ sung: a) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại các điểm d và đ khoản 1; các điểm a, b, c, e và g khoản 2; các điểm a, c, d, đ, e, h, i và k khoản 3; các điểm a, b, c, d, đ, e, h và i khoản 4 và khoản 5 Điều này; … Như vậy, căn cứ theo quy định trên, người đốt pháo hoa nổ trái phép có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng. Bên cạnh còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. *Lưu ý: Mức xử phạt trên đối với cá nhân, đối với tổ chức vi phạm xử phạt bằng 2 lần mức xử phạt đối với cá nhân.
(Dân trí) - Cựu Bộ trưởng Nguyễn Thanh Long khai việc nhận hàng triệu USD là do Phan Quốc Việt chủ động chứ không gợi ý. Còn ông Chu Ngọc Anh nói không hề biết trong túi quà của Việt có tiền. Phiên xét xử sơ thẩm đại án Việt Á diễn biến căng thẳng ngay trong ngày đầu tiên và kết thúc khi trời đã tối muộn. Khoảng 18h30 ngày 3/1, 38 bị cáo mới lần lượt rời phòng xét xử của Tòa án nhân dân TP Hà Nội, bị áp giải lên xe chuyên dụng. Hai cựu Bộ trưởng nói gì về số tiền nhận của Việt Á? Trong phần thẩm vấn về cáo buộc nhận hối lộ từ Phan Quốc Việt, Tổng Giám đốc Công ty Việt Á, cựu Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết, tháng 2/2020, khi tình hình dịch Covid-19 có nhiều phức tạp, ông được bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Y tế. Bối cảnh lúc đấy rất cấp bách, chỉ đúng 2 ngày trước khi nhận được đề nghị cấp phép cho kit test của Việt Á, ông mới biết đến sản phẩm này. Và dù "không tin Việt Á sản xuất được kit test" song ông Long đã cho phép ông Nguyễn Minh Tuấn (cựu Vụ trưởng thuộc Bộ Y tế) cấp phép tạm thời cho kit test của Việt Á trong 6 tháng. Theo ông Long, mục đích khi đó hoàn toàn là vì công tác chống dịch Covid-19. Bị cáo Nguyễn Thanh Long tại phiên tòa (Ảnh: Phương Nguyễn). Tại tòa, ông Long khẳng định Phan Quốc Việt có nhờ nhiều người tác động nhưng ông không có bất kỳ ưu ái nào cho Việt Á. Đồng thời, ông cũng từ chối giới thiệu Việt Á đến các đơn vị thuộc Bộ Y tế bởi theo vị cựu Bộ trưởng Bộ Y tế, mọi việc phải công bằng, đơn vị nào đấu thầu được sản phẩm nào thì dùng sản phẩm đấy.  Song cựu Bộ trưởng cũng thừa nhận đã cầm của Việt Á 2,25 triệu USD thông qua thư ký của mình là Nguyễn Huỳnh.  Việc nhận tiền diễn ra sau 10 tháng kit test của Việt Á được cấp phép lưu hành chính thức; khi đưa tiền Huỳnh nói Việt Á làm ăn được nên tự "cảm ơn". Ông Long khai, việc nhận tiền diễn ra nhiều lần nhưng do Việt chủ động chứ ông không "gợi ý". Về số tiền 2,25 triệu USD đã nhận, bị cáo Long cho hay đến nay đã tác động gia đình khắc phục toàn bộ. Cựu Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh tại phiên tòa chiều 3/1 (Ảnh: N.P.). Về phần cựu Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Chu Ngọc Anh, bị cáo này cũng khẳng định ông ký quyết định giao đề tài nghiên cứu kit test Covid-19 cho Học viện Quân y chủ trì, Công ty Việt Á phối hợp thực hiện, là do tình thế chống dịch cấp bách. Theo vị cựu Bộ trưởng KH&CN, một đề tài nghiên cứu sẽ trải qua nhiều giai đoạn nghiệm thu nhưng đối với đề tài nghiên cứu kit test Covid-19, do rất cấp bách nên chưa có chương trình nghiệm thu trong kế hoạch. Về việc nhận 200.000 USD từ Phan Quốc Việt, cựu Bộ trưởng khai không hề biết trong "túi quà cảm ơn" Việt đưa tại văn phòng ông có chứa tiền. Mãi sau này khi phát hiện có tiền trong túi, bị cáo đã cất tiền vào vali, bảo nhân viên đưa về nhà để khi nào có dịp sẽ trả lại Phan Quốc Việt. Sau đó, do bận chống dịch trong thời gian dài nên ông không có cơ hội gặp Việt để trả lại tiền. "Đây là điều rất đau xót của bị cáo", ông Chu Ngọc Anh nói trước tòa. Hàng triệu USD "chia sẻ lợi ích trên tinh thần là người Á Đông" Nói về những khoản tiền đô la "khủng" chi cảm ơn cho nhiều người, Phan Quốc Việt cho biết, đầu tháng 3/2020, kit test Covid-19 của Việt Á được cấp phép lưu hành tạm thời và đến tháng 12/2020 mới được Bộ Y tế cấp phép chính thức.  Bị cáo Phan Quốc Việt (Ảnh: Hải Nam). Việt thấy các cán bộ đã từng giúp mình đều rất vất vả, tận tâm, chu đáo nên muốn chia sẻ lợi ích trên tinh thần là người Á Đông. Phan Quốc Việt khai đã đưa cho cựu Vụ phó Trịnh Thanh Hùng 350.000 USD; ông Nguyễn Nam Liên (cựu Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Tài chính, Bộ Y tế) 100.000 USD; cựu Bộ trưởng KH&CN Chu Ngọc Anh 200.000 USD... Riêng cựu Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long và thư ký của ông này là Nguyễn Huỳnh được Việt đưa tổng cộng 2,25 triệu USD và 4 tỷ đồng. Việt giãi bày, số tiền đã đưa cho các cựu quan chức Việt phải mượn "nóng" của bạn bè vì thời điểm năm 2020, công ty chưa được thanh toán nên chưa có nguồn thu. Tổng Giám đốc Công ty Việt Á tự mình xách tiền USD từ TPHCM ra Hà Nội đưa cho các cựu quan chức. Ghi nhận trong ngày xét xử đầu tiên 3/1, HĐXX tập trung xét hỏi những bị cáo thuộc Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ, Phan Quốc Việt và cấp dưới... Trước bục khai báo, hầu hết các bị cáo đồng ý với những cáo buộc của cơ quan điều tra, cơ quan công tố. Thậm chí, ông Chu Ngọc Anh còn đánh giá những cáo buộc là "xác đáng", bản cung và kết luận điều tra rất "nhất quán". Ngày xét xử đầu tiên chỉ có một vài "điểm vênh" liên quan bị cáo Phạm Công Tạc - cựu Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ. Ông Tạc mong muốn HĐXX xem xét lại vai trò, trách nhiệm của bản thân trong vụ án cũng như ở vị trí khi còn công tác. Đặc biệt, bị cáo này phủ nhận cáo buộc nhận 50.000 USD từ Phan Quốc Việt. Ông Tạc khẳng định trong túi quà Tết mà Việt đưa cho bị cáo chỉ có 100 triệu đồng và hiện gia đình ông đã khắc phục 80 triệu đồng. Hôm nay 4/1, HĐXX tiếp tục phần thẩm vấn đối với các bị cáo. Dự kiến phiên xét xử kéo dài 20 ngày. Nguồn: Nguyễn Hải và Hải Nam
Sáng 26/12, phiên tòa phúc thẩm đại án "chuyến bay giải cứu" chuyển sang phần tranh luận, đại diện VKSND công bố bản luận tội, đồng thời đề nghị mức án đối với các bị cáo Các bị cáo tại phiên toà xét xử. Ảnh: Phạm Kiên - TTXVN Nhóm bị cáo Nhận hối lộ: Phạm Trung Kiên (cựu Thư ký Thứ trưởng Bộ Y tế), án sơ thẩm chung thân: VKS đề nghị y án. Vũ Anh Tuấn (cựu Phó Trưởng phòng Tham mưu, Cục Quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an), án sơ thẩm chung thân: VKS đề nghị y án. Nguyễn Thị Hương Lan (cựu Cục trưởng Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao), án sơ thẩm chung thân: VKS đề nghị 20 năm tù. Tô Anh Dũng (cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao), án sơ thẩm 16 năm tù: VKS đề nghị giảm 3-4 năm tù. Đỗ Hoàng Tùng (cựu Phó Cục trưởng Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao), án sơ thẩm 12 năm tù: Đề nghị giảm 2-3 năm tù. Trần Văn Tân (cựu Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam), án sơ thẩm 6 năm tù: VKS đề nghị giảm 1 năm tù. Vũ Sỹ Cường (cựu cán bộ Phòng Tham mưu Cục Quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an), án sơ thẩm 9 năm tù: VKS đề nghị giảm 9-12 tháng tù. Nhóm bị cáo Đưa hối lộ: Nguyễn Thị Thanh Hằng (Phó Tổng Giám đốc Công ty Blue Sky), án sơ thẩm 11 năm tù: VKS đề nghị giảm 12-18 tháng tù. Lê Hồng Sơn (Tổng Giám đốc Công ty Blue Sky), án sơ thẩm 10 năm tù: VKS đề nghị giảm 12-18 tháng tù. Hoàng Diệu Mơ (Tổng Giám đốc Công ty An Bình), án sơ thẩm 7 năm tù: VKS đề nghị y án. Võ Thị Hồng (Giám đốc Công ty Minh Ngọc), án sơ thẩm 4 năm: VKS đề nghị giảm 6-12 tháng tù. Lê Văn Nghĩa (Giám đốc Công ty Nhật Minh) - án sơ thẩm 3 năm tù: VKS đề nghị giảm 6-9 tháng tù. Trần Thị Mai Xa (Giám đốc Công ty MasterLife), án sơ thẩm 3 năm tù: VKS đề nghị giảm 6 tháng tù. Lê Thị Ngọc Anh (cựu cán bộ Ban Đối ngoại Trung ương Đảng), án sơ thẩm 3 năm tù: VKS đề nghị giảm 6-9 tháng tù. Phạm Bích Hằng (Phó Giám đốc Công ty Du lịch Quốc tế), án sơ thẩm 20 tháng tù: VKS đề nghị bác kháng cáo. Nhóm bị cáo Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Nguyễn Hoàng Linh (cựu Bí thư thứ Hai, Đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia), án sơ thẩm 30 tháng tù: VKS đề nghị giảm còn 30 tháng treo. Đặng Minh Phương (cựu cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia), án sơ thẩm 18 tháng tù: VKS đề nghị thành 30 tháng treo. Nhóm bị cáo Môi giới hối lộ: Trần Quốc Tuấn (Giám đốc Công ty cổ phần xúc tiến Thương mại và Du lịch Việt Nam), án sơ thẩm 3 năm tù: VKS đề nghị giảm 36 tháng treo. Phạm Thị Kim Ngân (cựu cán bộ Phòng trị sự Tạp chí Thanh tra Chính phủ), án sơ thẩm 15 tháng tù: VKS đề nghị giảm 2 tháng tù. Nhóm bị cáo Lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Hoàng Văn Hưng (cựu Trưởng phòng 5 Cục An ninh điều tra Bộ Công an), án sơ thẩm chung thân: VKS đề nghị 20 năm tù. Trần Minh Tuấn (Giám đốc Công ty cổ phần Xây dựng Thái Hòa), án sơ thẩm 18 năm tù: VKS đề nghị bác kháng cáo. Nhóm bị cáo không kháng cáo: Trần Việt Thái (cựu Đại sứ Việt Nam tại Malaysia), án sơ thẩm 4 năm tù: VKS đề nghị giảm 6-12 tháng tù. Nguyễn Anh Tuấn (cựu Phó Giám đốc Công an TP Hà Nội), án sơ thẩm 5 năm tù: Đề nghị 4 năm - 4 năm 6 tháng tù (không kháng cáo nhưng vẫn được đề nghị giảm án) Nguồn: Báo Dân trí
Sáng 27-11, với 431/468 đại biểu tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Căn cước gồm 7 chương, 46 Điều, có hiệu lực từ ngày 1-7-2024. Đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Căn cước (Ảnh: Báo Dân trí) Báo cáo giải trình, tiếp thu dự thảo Luật Căn cước trước khi trình Quốc hội biểu quyết thông qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, qua thảo luận tại Kỳ họp thứ 6 và phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giữa 2 đợt của Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, hầu hết ý kiến đại biểu Quốc hội đều đồng ý với tên gọi của dự thảo Luật và tên thẻ căn cước. Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, việc sử dụng tên gọi Luật Căn cước thể hiện rõ tính khoa học, vừa bao quát được phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của luật, vừa phù hợp với xu hướng quản lý xã hội số. Với việc tích hợp đầy đủ thông tin một cách khoa học trong thẻ căn cước cùng với hình thức, phương thức quản lý số bảo đảm tính đại chúng, việc đổi tên thành thẻ căn cước sẽ giúp cho công tác quản lý nhà nước có tính khoa học hơn, phục vụ công cuộc chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số của Chính phủ. Việc này cũng tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho người dân trong tham gia các hoạt động xã hội cũng như giao dịch về hành chính, dân sự ngày càng tiện lợi. Ngoài ra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết nội dung này đã xin ý kiến Bộ Chính trị và được Bộ Chính trị đồng thuận, thống nhất cao về việc sử dụng tên gọi Luật Căn cước, thẻ căn cước. Để tạo điều kiện cho người dân thực hiện một số giao dịch liên quan đến chứng minh nhân dân trong giai đoạn chuyển tiếp, luật quy định chứng minh nhân dân còn thời hạn sử dụng đã được cấp trước ngày luật này có hiệu lực thi hành, được sử dụng đến hết ngày 31/12/2024. Các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành sử dụng thông tin từ chứng minh nhân dân, căn cước công dân được giữ nguyên giá trị sử dụng; cơ quan nhà nước không được yêu cầu công dân thay đổi, điều chỉnh thông tin về chứng minh nhân dân, căn cước công dân trong giấy tờ đã cấp. Ngoài ra, luật cũng quy định "Thẻ căn cước công dân, chứng minh nhân dân hết hạn sử dụng từ ngày 15/1/2024 đến trước ngày 30/6/2024 tiếp tục có giá trị sử dụng đến hết ngày 30/6/2024". Nguồn: Báo Dân trí
Cơ quan Cảnh sát Điều tra (Bộ Công an) xác định Trương Mỹ Lan không giữ chức vụ nhưng nắm giữ 91,5% cổ phần tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB). Từ 1/1/2018 đến 7/10/2022 người này chỉ đạo sử dụng 916 bộ hồ sơ khống rút ruột SCB, đến nay còn nợ trên 545 nghìn tỷ đồng. Số tiền này được nhà chức trách xác định bị chiếm đoạt... Trương Mỹ Lan và đồng phạm đã dùng ngân hàng SCB để huy động vốn, phục vụ cho nhóm doanh nghịệp thuộc hệ sinh thái sân sau. Cơ quan Cảnh sát Điều tra (Bộ Công an) vừa có "Kết luận điều tra vụ án tham ô tài sản, vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng, đưa hối lộ, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, ngân hàng SCB và các đơn vị, tổ chức có liên quan". TRƯƠNG MỸ LAN SỞ HỮU HƠN 91,5% CỔ PHẦN NGÂN HÀNG SCB THÔNG QUA HÀNG CHỤC CÔNG TY BÌNH PHONG Theo kết luận điều tra, Trương Mỹ Lan là chủ Tập đoàn Vạn Thịnh Phát (VTP), bao gồm một tập hợp các công ty con, công ty liên kết như Công ty Cổ phần Tập đoàn VTP, CTCP Tập đoàn Đầu tư Vạn Thịnh Phát, CTCP Tập đoàn Đầu tư An Đông, CTCP Tập đoàn Sàn Gòn Peninsula, CTCP Tập đoàn Quản lý bất động sản Windsor, CTCP Đầu tư Times Square… Với chủ trương lợi dụng hoạt động của ngân hàng trong việc huy động nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh của tập đoàn và các công ty kể trên, Trương Mỹ Lan là chủ sở hữu 3 ngân hàng gồm: Ngân hàng TMCP Sài Gòn (cũ); Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa; Ngân hàng TMCP Đệ Nhất. Từ đây, bà Lan đã thao túng hoạt động của các ngân hàng này, phục vụ cho các mục đích cá nhân. Từ tháng 12/2011, bằng hình thức nhờ người đứng tên sở hữu cổ phần, Trương Mỹ Lan nắm giữ 81,43% cổ phần của Ngân hàng TMCP Sài Gòn (cũ) dưới tên của 32 cổ đông; 98,74% cổ phần của Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa dưới tên của 36 cổ đông và 80,46% cổ phần của Ngân hàng TMCP Đệ Nhất dưới tên của 24 cổ đông. Sau khi 3 ngân hàng này được hợp nhất vào ngày 10/1/2012, với tên gọi là Ngân hàng TMCP Sài Gòn (Ngân hàng SCB), Trương Mỹ Lan tiếp tục nhờ 73 cổ đông đứng tên sở hữu 85,606% cổ phần của SCB. Đồng thời, tiếp tục mua và sử dụng cá nhân đứng tên cổ phần tại Ngân hàng SCB để tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần tại ngân hàng này lên 91,545% vào ngày 1/1/2018. Tính đến tháng 10/2022, Ngân hàng SCB có vốn điều lệ 15.231,688 tỷ đồng với tổng số 4.129 cổ đông được Ngân hàng Nhà nước công nhận. Trong đó, Trương Mỹ Lan đã sở hữu, chi phối gần 91,536% vốn điều lệ, do 27 pháp nhân, cá nhân đứng tên giúp. Trương Mỹ Lan trực tiếp đứng tên sở hữu 4,982% vốn điều lệ. Với việc sở hữu/nắm quyền chi phối số cổ phần ngân hàng SCB nêu trên, Trương Mỹ Lan đã đưa người của mình hoặc sử dụng các cá nhân Lan tin trưởng, thân tín vào các vị trí thuộc Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc, Giám đốc Chi nhánh lớn, Trưởng ban kiểm soát. Họ đều là những người có trình độ, hoạt động lâu năm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, nghe theo chỉ đạo của Trương Mỹ Lan. Họ được trả mức lương cao từ 200 đến 500 triệu đồng/tháng.  Theo Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Trương Mỹ Lan mặc dù không nắm giữ chức vụ nào tại Ngân hàng SCB nhưng lại là người có quyền hạn rất lớn tại SCB.  Từ khi sáp nhập (2012) đến nay, Trương Mỹ Lan luôn nắm giữ cổ phần chi phối tại Ngân hàng SCB (từ 85% đến 91,5% tổng số cổ phần của SCB do chính Trương Mỹ Lan, các cá nhân thân tín và pháp nhân của Lan sở hữu đứng tên sở hữu). Số cổ phần còn lại (dưới 10%) do khoảng hơn 4.000 cổ đông nhỏ lẻ nắm giữ. Bằng cách thâu tóm, nắm giữ cổ phần chi phối, điều hành hoạt động ngân hàng thông qua các đối tượng chủ chốt tại Ngân hàng SCB, Trương Mỹ Lan đã sử dụng ngân hàng SCB với chức năng của một ngân hàng thương mại cổ phần như một công cụ tài chính để huy động tiền gửi của người dân và các tổ chức, huy động vốn từ các nguồn khác theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trong hoạt động cho vay, ngân hàng SCB lại chủ yếu phục vụ cho mục đích cá nhân của Trương Mỹ Lan. DÙNG NHIỀU CÁ NHÂN, PHÁP NHÂN “MA” LẬP HỒ SƠ VAY VỐN KHỐNG Kết quả điều tra xác định, Trương Mỹ Lan đã trực tiếp chỉ đạo hoặc thông qua thân tín chỉ đạo các đối tượng tại Ngân hàng SCB, Vạn Thịnh Phát, đơn vị thẩm định giá tài sản đảm bảo thực hiện các thủ đoạn: (1) Tạo lập khách hàng vay vốn khống, thuê/nhờ người đứng tên tài sản; (2) Tạo lập hồ sơ vay vốn khống; (3) Đưa tài sản đảm bảo được định giá trị, để tạo ra một bộ hồ sơ đúng như quy trình nhằm che giấu, đối phó với các cơ quan thanh tra, kiểm tra, thực chất là để “rút ruột” ngân hàng SCB. Hầu hết các khoản vay của Trương Mỹ Lan và Tập đoàn VTP được giải ngân trước và thực hiện hợp thức sau. Mặc dù trên hồ sơ thể hiện thời điểm giải ngân cùng thời điểm ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp nhưng thực tế, việc rút tiền tại Ngân hàng SCB đã được thực hiện trước khi hợp đồng tín dụng, thủ tục thế chấp tài sản được hoàn thiện. Nếu theo quy trình thông thường thì ngân hàng chỉ giải ngân khi đã hoàn thiện các thủ tục pháp lý về thế chấp tài sản bảo đảm nhưng thực tế đối với 1.284 khoản vay của Trương Mỹ Lan và Tập đoàn VTP còn dư nợ, có 684 khoản vay/tổng số dư nợ 382.879 tỷ đồng (gồm 261.588 tỷ đồng nợ gốc, 121.287 tỷ đồng nợ lãi) chưa có thủ tục thế chấp khi giải ngân, số còn lại tài sản bảo đảm chủ yếu là cổ phần, quyền tài sản. Hơn 1.284 khoản vay nêu trên được đứng tên bởi 875 khách hàng, bao gồm 440 cá nhân, 435 pháp nhân. Hầu hết các pháp nhân vay vốn đều là pháp nhân không có hoạt động thực tế (pháp nhân "ma") do Trương Mỹ Lan chỉ đạo các đối tượng thân cận thuê người đứng tên thành lập công ty dưới các vai trò là người đại diện theo pháp luật, cổ đông thành viên công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, tìm địa chỉ đặt trụ sở công ty, chọn ngành nghề kinh doanh… cho phù hợp với yêu cầu rút vốn. Các công ty này thành lập nhưng thực chất không có hoạt động kinh doanh gì. Để tránh sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền, thuộc cấp của Trương Mỹ Lan đã giao cho một số nhân viên kế toán quản lý, báo cáo thuế, nghe điện thoại theo số đã đăng ký, quản lý con dấu như một công ty đang hoạt động. Danh sách các pháp nhân, cá nhân được giao cho một số nhân viên tại Văn phòng HĐQT Tập đoàn VTP theo dõi, khi cần sử dụng pháp nhân, cá nhân cho các mục đích đứng tên khoản vay/đứng tên tài sản/đứng tên phương án vay vốn/rút tiền của ngân hàng SCB. Với phương thức, thủ đoạn nêu trên, nhóm Vạn Thịnh Phát đã thành lập hàng nghìn pháp nhân, thuê/sử dụng hàng nghìn cá nhân làm đại diện pháp luật, đứng tên cổ đông, đứng tên ký hồ sơ vay vốn, đứng tên tài sản bảo đảm để hợp thức rút tiền của ngân hàng SCB.  Thủ đoạn lão luyện ở chỗ, khi “kho” pháp nhân, cá nhân này càng ngày càng phình to vì phải thành lập nhiều pháp nhân, dựng nhiều cá nhân mới để đứng tên khoản vay thì khi kiểm tra thông tin tín dụng trên CIC sẽ không có dư nợ tín dụng lớn. Còn nếu sử dụng cá nhân, pháp nhân cũ, khi thực hiện tra soát trên CIC sẽ thấy đứng tên các khoản vay rất lớn, không đủ điều kiện để lập được hồ sơ vay vốn.  Từ đầu năm 2020, Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo thành lập các đơn vị cho vay thuộc SCB chỉ để phục vụ cho các mục đích giải ngân tiền cho nhóm Trương Mỹ Lan. Những đơn vị này được lãnh đạo Ngân hàng SCB giao giải quyết các khoản vay như các chi nhành, tuy nhiên các đơn vụ đều có đặc điểm khác biệt so với các chi nhánh ngân hàng SCB là: (1) Trực thuộc quản lý điều hành của Hội sở Ngân hàng SCB; (2) Không có con sấu riêng là sử dụng con dấu của các đơn vị khác khi hoạt động; (3) Không có bộ phận kho quỹ riêng. Theo kết quả điều tra, từ 1/1/2018 đến 7/10/2022, Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo lập khống 916 hồ sơ vay vốn rút tiền chiếm đoạt của Ngân hàng SCB. Đến nay, các khoản vay này còn nợ hơn 545 ngàn tỷ đồng. Trong đó, hơn 415.666 tỷ đồng là dư nợ gốc và 129.372 tỷ đồng dư nợ lãi. Toàn bộ số tiền chiếm đoạt này đều phục vụ cho mục đích cá nhân của Trương Mỹ Lan. Kết quả điều tra xác định bản chất việc đưa tài sản bảo đảm vào SCB chỉ là phương thức, thủ đoạn phạm tội. Có nhiều tài sản bảo đảm không có giá trị gháp lý, không đủ điều kiện để làm tài sản thế chấp nhưng vẫn được định giá, nâng khống giá trị, đưa vào thế chấp tại ngân hàng SCB làm phương án vay. Có 684/1.284 khoản vay chưa có thủ tục thế chấp khi giải ngân. Nhiều khoản vay được giải ngân trước, sau đó mới hợp thức hồ sơ vay và tài sả đảm bảo. Có 201/1.284 khoản vay chưa có phê duyệt cho vay của cấp có thẩm quyền. Các bị can tại ngân hàng SCB đều đã khai nhận chỉ ký thủ tục hợp thức, không thực hiện thẩm định, đánh giá lại khoản vay theo quy định pháp luật và quy trình của ngân hàng SCB về việc cho vay. Do vậy, Cơ quan Điều tra cho biết có đủ căn cứ xác định toàn bộ số tiền gốc 415.666 tỷ đồng mà Trương Mỹ Lan và đồng phạm lập hồ sơ vay vốn hợp thức để rút ra khỏi ngân hàng SCB đến nay còn dư nợ không trả được là số tiền mà Trương Mỹ Lan đã chiếm đoạt của ngân hàng SCB. Nguồn: VnEconomy
 
hotline 0927625666